3 thg 9, 2012

Bao giờ người Việt được sống thật, được nói thật ?


Thái Hiền


Ngày xưa trong gia đình cha mẹ luôn dạy con cái phải thật thà, trung thực. Khi đến tuổi đi hoc, nhà trường cũng dạy học sinh phải thẳng thắn, dũng cảm, dám hy sinh, tôn trọng người khác và biết tự trọng... Rất nhiều tấm gương về lòng trung thực, dũng cảm bảo vệ lẽ phải, sự công bằng và chính nghĩa mà các nhân vật trong tiểu thuyết hay phim ảnh luôn là thần tượng của tuổi thanh thiếu niên bấy giờ. Thế rồi không biết tự bao giờ,  cùng với nền giáo dục, những phẩm hạnh đó mất đi và nay trở thành xa lạ với xã hội, thậm chí trong một số trường hợp trung thực, thật thà, dũng cảm lại là vật cản đối với nhiều người.
Ngày nay, thay bằng việc giáo dục tính thật thà, trung thực, lòng dũng cảm các bậc phụ huynh phải trang bị cho con trẻ ngay từ khi chúng mới lớn cách sống “ khôn ngoan” và khả năng tự vệ, né tránh với muôn vàn mánh lới, cạm bẫy nguy hiểm của xã hội nơi chúng vừa mới bước vào.
 Nhà trường dạy cho học sinh những tiểu xảo che mắt các phái đoàn đến thăm, dạy học sinh cách gian lận trong thi cử để trường mình được thành tích tốt hơn trường khác, khai man tuổi để đi thi…
Khi vào đời thì người ta dạy cách sống “khéo léo” để được “tiến bộ”, được đề bạt. Khi đã có cái ghế ngồi, có địa vị trong công việc thì học thêm những mẹo vặt hay cách “ngậm miệng ăn tiền” để được lòng cấp trên, vừa lòng cấp dưới… Cao hơn nữa thì dạy cách trang bị càng nhiều càng tốt những hư danh, kể cả việc mua bằng giả để trèo cao, chui sâu.
Cho tới khi hết tuổi làm việc nhiều người thậm trí còn cố tìm cách khai man tuổi để không bị về hưu đúng hạn.
Con người cá thể tìm kẽ hở để qua mặt Nhà chức trách, đối phó với cơ quan Công quyền. Ngược lại đại diện các cơ quan Công quyền, Nhà chức trách cũng tìm cách kiếm chác từ sơ hở của pháp luật lẫn sự dại dột và ấu trĩ của người dân.
Cả xã hội quay cuồng, tất bật với bao nhiêu là kỹ xảo gian dối, thủ đoạn tàn nhẫn để kiếm chác, bon chen, luồn lách, tồn tại. Họ lo sợ, né tránh sự thật. Kẻ có quyền, có tiền  thì lo mất quyền, mất ghế.. Người không có quyền thì sợ quyền lực trù dập. Phần lớn người ta bị rơi vào một tâm lý hoảng loạn, xét nét, ngờ vực dẫn đến thái độ vô cảm, vô trách nhiệm, sống thờ ơ, thụ động, hèn nhát và tàn nhẫn. Một số ít người nhận biết ra sự thật thì cũng chỉ dám thì thầm, bàn tán vụng trộm như thể chính họ là những người có lỗi.. Họ sợ bị cô lập. Hoạ hoằn lắm mới có người dũng cảm nói lên sự thật, dũng cảm “đi tìm cái tôi đã mất” - nhưng cũng chỉ đến khi đã nghỉ hưu.
Sự giả dối ngày nay đạt tới mức “chân thật”. Giả dối không chỉ lời nói, cử chỉ, thái độ, suy nghĩ mà ngay cả niềm tin cũng giả dối nốt.  Mặc dù cũng có người tự trọng cảm thấy đó là vô liêm sỉ, song họ bắt buộc phải hòa mình với khung cảnh và môi trường xã hội để tồn tại vì không còn sự lựa chọn khác.
Vả lại trong hoàn cảnh xã hội ngày nay, sống thật, nói thật, nói thẳng nhiều khi bị vạ lây, nhiều trường hợp còn bị coi là “kích động”, “giúp tay” cho thế lực “diễn biến hoà bình”, “âm mưu chống chế độ”, v.v... Đến nỗi mọi người phải thì thầm lén lút, vụng trộm như những kẻ phạm tội mỗi khi nói về sự thật, đấu tranh cho sự công bằng và chính nghĩa.
Tuy nhiên sự thật vẫn luôn tồn tại bên cạnh những biến thể của nó. Xã hội tồn tại và phát triển là dựa trên cái “thực” chứ không phải cái “hư”. Khi xã hội bị một ma lực nào đó áp đặt những quy tắc trái với lẽ thông thường để rồi cái “chân” bị chối từ, phủ nhận hay kết án thì con người cá thể theo bản năng tự nhiên sẽ tìm cách bảo vệ sự thật, bảo vệ lẽ phải và công lý. Chẳng thế mà từ ngàn đời nay, dẫu triều đại hưng thịnh hay suy tàn, rốt cuộc mọi diễn biến của xã hội dù bi hay hùng, đều được các nhà chép sử lưu lại một cách trung thực.
Lịch sử loài người có thăng có trầm, nhưng rất may xã hội luôn theo hướng tiến bộ và hoàn thiện. Cũng như ngày nay, khi những tờ báo “lề phải” không dám nói hoặc “bỏ sót” sự thật, thì ngay lập tức xuất hiện những tờ báo hay trang mạng xã hội nhận trách nhiệm thay thế, bù đắp cho sự thật bị đánh tráo, công lý bị chà đạp. Đó chính là quy luật vũ trụ không thể khác.
Sự thật luôn luôn tồn tại một cách khách quan. Dẫu có muốn bóp méo hay chôn vùi, rồi cuối cùng sự thật vẫn hiện nguyên hình. Sự thật chỉ có một, không thể là hai hay một nửa. Sự thật chẳng cần tô vẽ hay gọt đẽo để tăng thêm hay giảm đi giá trị của nó.
Lịch sử cho thấy những triều đại suy tàn và sụp đổ đều có chung một kịch bản đó là cố đi tìm cái “hư” mà không phải là cái “thực”. Rất nhiều bài học cay đắng trong lịch sử mất nước của những Vương triều bị sụp đổ là do Vua nghe nịnh thần, tự huyễn hoặc, bất chấp dư luận xã hội, trừng phạt trung thần. 
Như vậy, có thể nói mức độ chân thực của xã hội chính là thước đo sức khoẻ của chế độ. Mức độ giả dối của xã hội càng cao thì nguy cơ tan vỡ càng lớn.
Các chế độ xã hội đều tồn tại trên cơ sở một chủ thuyết nhất định, được nhà cầm quyền lựa chọn áp đặt và giáo dưỡng. Chủ thuyết không tưởng (hư) sẽ dẫn tới một xã hội thác loạn và mất phương hướng. Nói cách khác khi xã hội bị đẩy tới chỗ tha hóa biến chất, mọi giá trị đạo đức không còn ý nghĩa, con người mất hết niềm tin và sự thật trở thành vật cản của chính nó thì chứng tỏ chủ thuyết đó đã tan vỡ, triều đại dựa trên chủ thuyết đó đang sụp đổ.
Xã hội Việt nam ngày nay đang chứa đựng một sự giả dối đến cực điểm; nó như bóng ma phủ lên mọi khía cạnh của đời sống xã hội, phủ kín mọi tầng lớp, mọi lứa tuổi. Giả dối không chỉ là hàng hóa, mà cả thước đo, chứng chỉ, bằng cấp. Giả dối từ vật thể đến phi vật thể, từ giá trị đến khái niệm… hết thảy đều giả dối. Giả dối dẫn đến lẫn lộn trắng đen, đảo ngược giữa công và tội, lẫn lộn giữa thiện và ác, giữa hư với thực. Chính sự giả dối là thủ phạm số một, là môi trường lý tưởng cho tham nhũng và tham nhũng đã trở thành Quốc nạn.
Đã đến lúc chúng ta phải dũng cảm vứt bỏ những cái “hư”, cái ảo để đi tìm cái “thực”, lấy lại niềm tin và lẽ sống với giá trị đích thực của con người, của đời sống xã hội.. 
Không ai cho và cũng không ai cấm chúng ta quyền được sống một cách đàng hoàng, đĩnh đạc, quyền được suy nghĩ và biểu hiện suy nghĩ một cách trung thực, trong sáng và mạch lạc, quyền được nói lên sự thật một cách công khai và đàng hoàng.
Nhanh hay chậm, tất cả phụ thuộc vào mỗi chúng ta.   

Bài trên trời rơi xuống.

Buồn cho thế thái


LD: Kỳ về quê vừa qua nghe nhiều chuyện đau lòng: anh em ruột kiện cáo tranh giành nhau vườn đất, con trẻ bị lừa gắn nợ lãi cao dẫn đến tranh cãi đâm chém nhau; thanh thiếu niên nghiện hút; thuê đầu gấu đòi nợ v.v... Vậy cọp bài thơ này của HoaMai:

03/07/2012, hoamai1

"Nhân chi sơ tính bản thiện",
Sao giờ đây nhiều chuyện đau lòng?
Con kiện mẹ đòi trả công,
Vợ tưới xăng đốt chết chồng như chơi!
Cha già tuổi đã tám mươi,
Lũ con bất hiếu sợ nuôi tốn tiền.
Vì tham lừa cả bạn hiền,
Cướp chồng, đoạt vợ, đảo điên nhân tình.
Cháu giết bà, em giết anh,
Máu đào đổ bởi tranh giành thiệt hơn.
Sợ thay thời buổi nhiễu nhương,
Suy đồi đạo lý, yêu thương chẳng còn!

Ngành ngân hàng đang đi ngược lại lịch sử

Sau khi nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời ngành ngân hàng chỉ có duy nhất là: Ngân hàng nhà nước Việt Nam, đến năm 1956 tức là sau ngày cải cách ruộng đất do yêu cầu phát triển miền Bắc xã hội chủ nghĩa làm hậu thuẫn cho cách mạng giải phóng dân tộc ở miền Nam, Đảng và nhà nước ta quyết định thành lập ngân hàng kiến thiết Việt Nam. Ngân hàng nhà nước Việt Nam có hệ thống từ trung ương đế tỉnh thành và quận huyện, còn ngân hàng kiến thiết Việt Nam chỉ có từ trung ương đến tỉnh thành. Ngân hàng nhà nước Việt Nam có chức năng quản lý tiền bạc (tiền Việt và ngoại tệ), cấp phát vốn theo kế hoạch của bộ tài chính sau khi đã được nhà nước phê chuẩn và hoạt động tín dụng (cho vay và nhận tiền gửi). Còn ngân hàng kiến thiết Việt Nam làm nhiệm vụ trung gian giữa tài chính và ngân hàng về mặt quản lý vốn về đầu tư xây dựng cơ bản, vì trong giai đoạn từ năm 1956 đến 1960 nhà nước xây dựng rất nhiều công trình lớn: Đại thủy nông Bắc Hưng Hải, nhà máy trung qui mô Hà Nội, dệt Nam Định, nhà máy nhiệt điện Uông Bí, nhà máy điện Vinh, đường sắt Hà Nội - Vinh và biết bao trường đại học trong đó có trường ĐHBKHN. Ngân hàng kiến thiết Việt Nam có ba nhiệm vụ chính : Nắm được nghiệp vụ tài chính, nghiệp vụ dự toán kinh phí công trình và kế hoạch cấp phát vốn. Có nghĩa là mỗi công trình chỉ được ứng tiền và thanh quyết toán từ NHNNVN khi có văn bản quyết định của NHKTVN. Nhờ cơ cấu tổ chức đó của ngành ngân hàng đã chặn được sự "móc ngoặc" giữa chủ đầu tư và nhà thầu thi công, bảo vệ đồng vốn của nhà nước khi xây dựng các công trình. Suốt mấy chục năm chiến tranh chống Mỹ  với cơ cấu gọn nhẹ, tinh giảm của ngành ngân hàng Đảng và nhà nước ta vẫn thực hiện tốt đệp nhiệm vụ xây dựng CNXHMB, chi viện đắc lực cho miền Nam, đánh tan âm mưu phá hoại miền Bắc của đế quốc Mỹ. Việc chi viện cho miền Nam ngoài huyết mạch thông qua đường Trường Sơn vĩ đại, Đảng và Bác Hồ còn giác ngộ cách mạng cho các nhà tư sản Việt kiều ở nước ngoài  như Thái Lan, Cam pu-chia  và một số nước ở Đông Nam Á khác nhờ các nhà tư sản này họ có quan hệ mua bán với chính quyền Nguyễn Văn Thiệu mà họ chuyển được vũ khí đạn dược, xăng , dầu, thuốc men kể cả ngoại tệ mạnh cho quân giải phóng miền Nam. Cuộc kháng chiến chống Mỹ kết thúc 30/04/1975 trong thắng lợi của toàn dân tộc có sự góp công không nhỏ của ngành ngân hàng tài chính. Chắc chúng ta còn nhớ: Bác hồ đã chọn bộ trưởng bộ tài chính Phan Anh, Đặng Việt Châu rồi thống đốc ngân hàng nhà nước Việt Nam - Hoàng Anh, các bộ trưởng đó là những người rất giỏi về trình độ chuyên môn và rất tâm huyết với nhiệm vụ của dân tộc.
Đến năm 1985 tiến sĩ Nguyễn Duy Gia được bổ nhiệm làm thống đốc NHNNVN  vừa ngồi chưa nóng ghế vị này đã đề nghị thành lập 3 ngân hàng chuyên doanh và đã được phê chuẩn đó là:
      1- Ngân hàng  ngoại thương Việt Nam
      2 -Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn
      3 -Ngân hàng công thương Việt Nam
Xóa bỏ ngân hàng kiến thiết Việt Nam bằng cách sáp nhập vào NHNN, hoặc xé lẻ ra các ngân hàng chuyên doanh vừa mới thành lập. Bốn  năm sau một số cán bộ cũ của ngành kiến thiết Việt Nam họp lại để trình chính phủ thành lập lại ngân hàng kiến thiết lấy tên là ngân hàng BIDV chức năng lúc này chủ yếu là hoạt động tín dụng còn phần quản lý vốn xây dựng cơ bản chủ yếu giao cho các bộ tự quản lý lấy.
Sau một thời gian hoạt động một loạt ngân hàng cổ phần khác ra đời: Ngân hàng quân đội, ngân hàng ACB, ngân  hàng Phương Nam, ngân hàng Đông Á..... Đến nay chỉ còn duy nhất ngân hàng Việt Nam là của nhà nước còn toàn bộ la cổ phần. Sự thoái trào của ngành ngân hàng được bắt đầu từ ngày thành lập ngân hàng chuyên doanh: Phạm Nhật Hồng giám đốc NNNT hiện đang thụ án tù trung thân, BIDVHai phòng nhận tiền hối lộ đã bị bắt, công ty cho thuê tài chính của NHNN vừa bị khởi tố, Giám đốc NHACB vừa bị bắt giam. Các cổ đông cùa ngân hàng cổ phần thử hỏi là những thành phần nào? Người lương thiện chân chính liệu có tiền tham gia cổ đông hay  không? Hoặc nói cách khác sân sau của các ngân hàng cổ phần là những ai?Những người đó có quyền cao chức trọng hay là những người nông dân và công nhân? Đồng tiền của nhân dân được NHNN  quản lý chạy vào các công ty nhà nước( Vinashin), vào các công trình trọng điểm của quốc gia rồi vào túi quan tham nhũng , quan tham nhũng lại tham gia cổ đông ở ngân hàng cổ phần, ngân hàng cổ phần làm thất thoát vốn gọi là nợ xấu, NHNN lại mua lại nợ xấu cho các ngân hàng cổ phần tức là bảo toàn lại đồng vốn cho cổ đông, cho những kẻ tham nhũng.
Đất nước ta nghèo người lao động cực khổ mất đất, mất nhà, gian nan vạn chuyện.