29 thg 7, 2012

Ảnh Trường Sa (tiếp)

Mình gửi tiếp lên đây một số ảnh về Trường Sa (trong số rất nhiều ảnh) mà con trai mình đã chụp khi đi công tác Trường Sa hồi tháng 4 để mọi người thêm yêu quý biển đảo của Tổ Quốc.

 Đảo Song Tử Tây

Bình minh trên đảo Song Tử Tây
Phía xa là đảo Song Tử  Đông đang bị nước ngoài (Philippines) chiếm đóng
Chiến sĩ trẻ và Cột mốc chủ quyền

Trên đảo không chỉ có bộ đội mà còn có các đơn vị phối thuộc, Ngọn Hải Đăng do cán bộ Bộ GTVT đảm nhiệm
Nhờ có cây xanh che mát nên các cô cậu ủn ỉn  nõn nà này đang đánh một giấc say nồng
Đang tập dượt cho trương trình "Chúng tôi là chiến sĩ"
Công dân tý hon của Đảo Song Tử Tây (đây không phải là hai bố con) 
Rau xanh trên đảo
Ủy Ban Nhân dân xã Song Tử Tây
Khu nhà ở của dân cư trên đảo

 

Quần đảo Hoàng sa , xưa và nay

Sự có mặt của con người

Biển Đông và vùng Đông Nam Á được Matteo Ricci vẽ trong Khôn Dư Vạn Quốc Toàn Đồ in tại Trung Quốc năm 1602, có ghi dòng chú thích bằng chữ Hán 万里長沙 (Vạn lý Trường Sa).

Dấu ấn sớm nhất ghi lại được của con người với quần đảo Trường Sa là từ khoảng năm thứ 3 trước Công nguyên. Điều này dựa trên một số phát hiện rằng những người đánh cá, đa số là cư dân từ Vương quốc Chăm Pa cổ của Việt Nam hoặc cư dân cổ xuất phát từ đảo Hải Nam và các vùng đất nay là các quận ở tỉnh Quảng Đông đã đến quần đảo Trường Sa, và các đảo khác ở vùng Biển Đông để đánh cá hàng năm. Vào thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, thỉnh thoảng có một số thuỷ thủ từ một số nước lớn châu Âu (gồm hoặc Richard Spratly hoặc William Spratly) đến quần đảo Trường Sa, từ đó quần đảo có tên tiếng Anh là Spratly và tên này được thừa nhận chung, nhưng các nước châu Âu hồi đó còn ít chú ý đến quần đảo này. Đa số các tên tiếng Anh của các đảo, đảo nhỏ và đảo chìm được những ngư dân Việt Nam đặt. Các tàu Đức đến nghiên cứu quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa năm 1883 nhưng cuối cùng đã rút lui sau khi có những phản ứng từ phía nhà Nguyễn của Việt Nam.
Các bản đồ địa lý Việt Nam cổ ghi nhận Bãi Cát Vàng (được dùng để chỉ chung cả Hoàng Sa và Trường Sa) là lãnh thổ Việt Nam từ đầu thế kỷ 17. Trong cuốn "Phủ biên tạp lục" của Lê Quý Đôn, Hoàng Sa và Trường Sa được xác định rõ thuộc về tỉnh Quảng Ngãi (dân binh 2 đội Bắc Hải và đội Hoàng Sa đều do đội Hoàng Sa ở xã An Vĩnh huyện Bình Sơn kiêm quản). Ông miêu tả đó là nơi người ta có thể khai thác các sản phẩm biển và những đồ vật sót lại từ các vụ đắm tàu. Lê Quý Đôn viết: "Tôi đã từng thấy một đạo công văn của quan chính đường huyện Văn Xương Quỳnh Châu gửi cho Thuận Hóa nói rằng: năm Càn Long thứ 18 (1753), có 10 tên quân nhân xã An Vĩnh tổng Cát Liềm huyện Chương Nghĩa phủ Quảng Ngãi nước An Nam, một ngày tháng 7 đến Vạn Lý Trường Sa (萬里長沙, tức quần đảo Trường Sa) tìm kiếm các thứ, có 8 tên lên bờ tìm kiếm, chỉ để 2 tên giữ thuyền, bị gió đứt dây thuyền, giạt vào Thanh Lan cảng, quan ở đấy xét thực, đưa trả về nguyên quán..."[1][2] (10 người dân binh Việt này là đội Bắc Hải phụ trách các đảo từ xứ Bắc Hải (Đông Bắc Biển Đông), cù lao Côn Lôn, và các đảo ở Hà Tiên. Đội Hoàng Sa phụ trách chính ở Hoàng Sa). Tài liệu ghi chép Việt Nam vào thế kỷ 17 nhắc đến các hoạt động kinh tế được tài trợ của chính phủ dưới triều nhà Lê từ 200 năm trước đó. Chúa Nguyễn (ở Đàng Trong) và nhà Nguyễn sau đó đã tiến hành nhiều cuộc nghiên cứu địa lý về các đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ thế kỷ 18thế kỷ 19.
Quần đảo Trường Sa (tức Vạn lý Trường Sa, 萬里長沙) được thể hiện trong Đại Nam nhất thống toàn đồ (năm 1834-1840).

Các bản đồ về địa lý cổ của Trung Quốc có vẽ quần đảo Trường Sa nhưng không tỏ rõ các đảo là lãnh thổ Trung Quốc. Trong khi ấy, một nhà sư của đất nước này là Thích Đại Sán (1633 - 1704, hiệu Thạch Liêm, quê ở tỉnh Giang Tây, Trung Quốc, đến Phú Xuân vào năm 1695 theo lời mời của chúa Nguyễn Phúc Chu) đã tỏ hoạt động thực thi chủ quyền của Đại Việt (Việt Nam) đối với quần đảo Trường Sa (và Hoàng Sa) trong tập sách Hải ngoại kỷ sự (quyển 3) của mình. Trích một đoạn sách liên quan:
"Khách có người bảo: mùa gió xuôi trở về Quảng Đông chừng vào độ nửa tháng trước và sau mùa lập thu. Chừng ấy gió Tây Nam thổi mạnh, chạy một lèo gió xuôi chừng 4, 5 ngày đêm có thể đến Hổ Môn [3] Nếu chờ đến sau mùa nắng, gió bấc dần dần nổi lên, nước chảy về hướng Đông, sức gió Nam yếu, không chống nổi dòng nước chảy mạnh về phía Đông, lúc đó sẽ khó giữ được sự yên ổn. Bởi vì có những cồn cát nằm thẳng dọc biển, chạy từ Đông Bắc qua Tây Nam; đống cao dựng đứng như vách tường, bãi thấp cũng ngang mặt nước biển, mặt cát khô rắn như sắt, rủi thuyền đụng phải hẳn tan tành; bãi cát rộng hàng trăm dặm, chiều dài thăm thẳm chẳng biết bao nhiêu mà kể gọi là Vạn lý Trường Sa, mù tít chẳng có cây nhà cửa. Nếu thuyền bị trái gió, trái nước mà lạc vào, dẫu không tan nát cũng không gạo không nước, trở thành ma đói mà thôi. Quãng ấy cách Đại Việt 7 ngày đường, chừng 700 dặm. Quốc Vương trước, hàng năm sai thuyền đánh cá đi dọc từng bãi cát, lượm vàng bạc, khí cụ của các thuyền hư hỏng dạt vào. Mùa thu nước ròng cạn rút về phía Đông, bị một ngọn sóng đưa đi, thuyền có thể trôi xa hàng trăm dặm; sức gió chẳng mạnh sợ gặp hiểm hoạ Trường Sa".
Cuốn sách Hải ngoại kỷ sự là một tài liệu cổ đáng tin cậy. Nguyên bản in sách này hiện còn được lưu giữ tại Đông Dương Văn khố Nhật Bản và Quốc lập Trung ương đồ thư quán Trung Hoa [4]
Sang thập niên 1930, Pháp tuyên bố chủ quyền lãnh thổ của Chính phủ Bảo hộ đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thay cho Việt Nam, lúc đó đang là nước thuộc địa của Pháp. Họ chiếm đóng một số đảo thuộc Trường Sa, gồm cả đảo Ba Bình, và xây các trạm khí tượng trên hai đảo, và sau đó quản lý chúng như một phần lãnh thổ của Đông Dương thuộc Pháp. Sự chiếm đóng này bị chính phủ quốc gia Trung Quốc phản đối bởi vì theo họ thì khi các tàu chiến của Pháp tới chín đảo thì trên biển có một số ngư dân gốc Trung Quốc đánh cá, theo họ thì các ngư dân này đã xé cờ Pháp sau khi tàu của Pháp rời khỏi đảo. Sau đó, Nhật Bản chiếm một số đảo trong Thế chiến thứ hai, và sử dụng các đảo này làm căn cứ tàu ngầm cho các chiến dịch ở Đông Nam Á. Dưới thời đó, những đảo này được gọi là Shinnan Shoto (新南諸島 - âm Hán Việt: Tân Nam chư đảo, nghĩa là "nhóm đảo mới phía Nam"), cùng với quần đảo Hoàng Sa được đặt dưới sự cai trị của Chính quyền Nhật tại Đài Loan. Sau khi Nhật Bản bị đánh bại, Quốc Dân Đảng tuyên bố chủ quyền toàn bộ quần đảo Trường Sa (gồm cả đảo Ba Bình) và chấp nhận sự đầu hàng của người Nhật. Nhật Bản rút bỏ tất cả các tuyên bố chủ quyền đối với các đảo vào năm 1951 theo Hiệp ước Hoà bình San Francisco. Trong hiệp ước với Trung Hoa Dân quốc, Nhật một lần nữa rút bỏ chủ quyền khỏi các đảo cùng với Hoàng Sa, Đông Sa (Pratas) và các đảo đã chiếm của Trung Quốc. Tuy nhiên, Quốc Dân Đảng đã rút khỏi Trường Sa và Hoàng Sa khi họ bị các lực lượng của Đảng Cộng sản Trung Quốc đối lập đánh bại năm 1949.
Tháng 4 năm 1950 Pháp trao lại quyền quản lý quần đảo Trường Sa (và Hoàng Sa) cho chính phủ Quốc gia Việt Nam thời quốc trưởng Bảo Đại nhưng việc đồn trú vẫn do quân đội Pháp đảm nhiệm, và khi người Pháp rời khỏi Việt Nam sau Hiệp định Genève, 1954, quyền kiểm soát thuộc về quân đội Quốc gia Việt Nam và kế tiếp là quân đội Việt Nam Cộng hòa thực hiện chủ quyền đóng giữ Trường Sa. Sau khi Việt Nam thống nhất năm 1975, các lực lượng hải quân của Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã tiếp quản từ quân đội Việt Nam Cộng hòa cho đến nay

Tranh chấp chủ quyền

Dấu hiệu đầu tiên cho thấy quần đảo Trường Sa không chỉ đơn giản là một mối nguy cho tàu chở hàng đi qua đó là khi vào năm 1968 người ta tìm thấy dầu mỏ trong vùng. Theo ước tính của Bộ Địa chất và Tài nguyên Khoáng sản Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa vùng quần đảo Trường Sa có chứa trữ lượng dầu và khí đốt tự nhiên rất lớn, lên đến 17,7 tỷ tấn (1,60 × 1010 kg), so với 13 tỷ tấn (1,17 × 1010 kg) của Kuwait, và họ xếp nó vào danh sách một trong bốn vùng có trữ lượng dầu khí lớn nhất thế giới. Đương nhiên, tiềm năng trữ lượng dầu khí to lớn này góp phần làm tình hình thêm căng thẳng và thúc đẩy các nước trong vùng tuyên bố có chủ quyền. Ngày 11 tháng 3 năm 1976, cuộc thám hiểm dầu khí lớn đầu tiên của Philippines được tiến hành ngoài khơi Palawan, trong khu vực quần đảo Trường Sa, và các khu khai thác ở đó hiện chiếm năm mươi phần trăm toàn bộ số dầu tiêu thụ tại Philippines.
Các nước tuyên bố chủ quyền không cấp giấy phép khai thác ngoài khơi trong vùng đảo vì sợ gây ra một sự xung đột lập tức. Các công ty nước ngoài cũng không đưa ra bất kỳ một cam kết nào về việc khai thác vùng này cho đến khi tranh cãi về lãnh thổ được giải quyết hay các nước tham gia đạt được thoả thuận chung.
Một động cơ khác để tranh chấp là trữ lượng khai thác cá thương mại của vùng biển quần đảo Trường Sa. Vào năm 1988, Biển Đông chiếm 8% tổng số lượng đánh bắt cá và hải sản của thế giới, một con số chắc chắn còn có thể tăng lên. Trung Quốc đã dự đoán rằng Biển Đông chứa lượng cá và các nguồn dầu mỏ, khí gas tự nhiên có giá trị lên đến một nghìn tỷ đôla. Đã có nhiều cuộc xung đột xảy ra giữa Philippines và các nước khác - đặc biệt là Trung Quốc - về những tàu đánh cá nước ngoài trong Vùng đặc quyền kinh tế của họ và báo chí cũng thường đưa tin về những vụ bắt giữ ngư dân Trung Quốc.
Vùng này cũng là một trong những vùng có mật độ hàng hải đông đúc nhất trên thế giới. Trong thập niên 1980, mỗi ngày có ít nhất 270 lượt tàu đi qua quần đảo Trường Sa, và hiện tại hơn một nửa số tàu chở dầu siêu cấp của thế giới chạy qua vùng biển này hàng năm. Lượng tàu chở dầu chạy qua Biển Đông lớn gấp ba lần lượng tàu chạy qua kênh Suez và gấp năm lần lượng tàu qua Kênh đào Panama; gần 20% lượng dầu thô trên thế giới được chuyên chở ngang qua Biển Đông.
Có nhiều ám chỉ rằng Trung Quốc đã sáp nhập và chiếm các đảo không phải chỉ vì mục tiêu khai thác tài nguyên mà còn để giám sát các hoạt động trên biển Đông. Ví dụ, đá Vành Khăn là một điểm lý tưởng để quan sát các tàu của Hải quân Mỹ chạy qua vùng biển phía tây Philippines. Việc Trung Quốc chiếm đảo này cũng có thể có mục đích đối chọi với Đài Loan hơn là với Philippines bởi vì Trường Sa nằm ngang vùng biển thiết yếu của Đài Loan. Đó cũng có thể chỉ đơn giản là một nỗ lực của Trung Quốc nhằm thông báo sự củng cố quyền bá chủ trong vùng của họ.
Một xô xát diễn ra liên quan tới một tàu dân sự vào ngày 10 tháng 4 năm 1983, khi một du thuyền của Đức bị bắn chìm. Không ai bị coi là chịu trách nhiệm về vụ này.
Để trả lời cho những lo ngại ngày càng tăng bởi các nước có bờ biển ở vùng biển quần đảo Trường Sa về sự xâm phạm của các tàu nước ngoài đối với tài nguyên thiên nhiên của họ, Liên hiệp quốc đã họp và ra Công ước Quốc tế về luật biển (UNCLOS) năm 1982 để xác định các vấn đề về các biên giới biển quốc tế. Về những lo lắng trên, chúng được giải quyết rằng một nước có đường bờ biển có thể tuyên bố 200 dặm hàng hải quyền tài phán từ biên giới đất liền của mình. Tuy nhiên UNCLOS không thể giải quyết vấn đề làm thế nào để giải quyết các tranh chấp chồng lấn và vì thế tương lai của quần đảo vẫn còn mờ mịt.
Năm 1984, Brunei lập ra một vùng đặc quyền đánh cá bao gồm cả đảo ngầm Louisa ở phía nam quần đảo Trường Sa, nhưng không công khai tuyên bố chủ quyền hòn đảo. Sau đó, vào năm 1988, Việt Nam và Trung Quốc một lần nữa lại đụng độ ở biển về quyền sở hữu đảo ngầm Johnson thuộc Trường Sa. Tàu chiến Trung Quốc đánh đắm các tàu chở đội quân đổ bộ Việt Nam. Hai nước bình thường hoá quan hệ vào năm 1991 và Chủ tịch Giang Trạch Dân sau đó đã hai lần viếng thăm Việt Nam, nhưng hai nước vẫn đối đầu về tương lai của Trường Sa.
Năm 1992, Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa và Việt Nam trao các hợp đồng thăm dò dầu khí cho các công ty Mỹ trên vùng chồng lấn ở Trường Sa; và vào tháng 5 năm 1992, Công ty dầu khí ngoài khơi quốc gia Trung Quốc (CNOOC) và Crestone Energy (một công ty Mỹ có trụ sở ở Denver, Colorado) đã ký một hợp đồng hợp tác để cùng thăm dò lô Wan'an Bei-21, một vùng rộng 25.155 km² ở phía tây nam Biển Đông gồm cả các vùng quần đảo Trường Sa. CNOOC cung cấp các dữ liệu về địa chất và các thông tin khác về đáy biển vùng đó trong khi Crestone đồng ý chịu mọi chi phí và tiếp tục tiến hành thăm dò địa chất và khoan trong vùng. Hợp đồng được kéo dài tới năm 1999 sau khi Crestone thất bại trong việc hoàn thành thăm dò. Một phần trong hợp đồng của Crestone bao gồm cả hai block 133 và 134 của Việt Nam nơi Petro Vietnam và ConocoPhillips Vietnam Exploration & Production, một đơn vị của ConocoPhillips, đã đồng ý đánh giá khả năng vào tháng 4 năm 1992. Điều này dẫn tới một sự chạm trán giữa Trung Quốc và Việt Nam, với việc mỗi nước đều yêu cầu rằng bên kia huỷ bỏ hợp đồng của mình. Xung đột cấp độ cao hơn nữa diễn ra đầu năm 1995 khi Philippines tìm thấy một kết cấu quân sự đầu tiên ở đảo ngầm Mischief, 130 dặm biển ngoài khơi Palawan. Việc này thúc đẩy chính phủ Philippines đưa ra một kháng cáo chính thức đối với sự chiếm đóng hòn đảo của Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa và Hải quân Philippines bắt giữ sáu mươi hai ngư dân Trung Quốc ở bãi Trăng Khuyết, cách Palawan 80 kilômét. Một tuần sau, sau sự xác nhận của Fidel Ramos về việc ra lệnh tăng cường cho các lực lượng quân sự trong vùng, Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa tuyên bố rằng kết cấu đó là các chòi tạm dành cho ngư dân.
Tiếp theo sự tranh cãi đó, Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa và các nước thành viên ASEAN, với sự môi giới của ASEAN, đã đạt được một thoả thuận rằng một nước sẽ thông báo tới các nước còn lại về hành động quân sự của mình bên trong vùng lãnh thổ tranh chấp và sẽ không tiến hành xây dựng thêm các công trình. Thoả thuận nhanh chóng bị Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa và Malaysia xâm phạm. Tuyên bố rằng vì bị hư hại do bão, bảy tàu Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa tiến vào vùng đó để sửa "các chòi ngư dân" ở đảo ngầm Panganiban. Malaysia xây dựng một kết cấu trên bãi Thám Hiểm và đổ bộ tại đảo ngầm Rizal, cả hai chỗ này đều nằm bên trong vùng EEZ của Philippines. Để trả đũa Philippines trao phản đối chính thức, yêu cầu dỡ bỏ các kết cấu đó, tăng cường tuần tra hải quân ở Kalayaan và mời các nhà chính trị Mỹ tới giám sát các căn cứ của Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa bằng máy bay.
Tới năm 1998, Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa tiếp tục sự sáp nhập các đảo của mình, đặt các cột mốc lãnh thổ hay phao trên bãi Suối Ngà và thứ hai, bãi cát Pennsylvania, bãi Trăng Khuyếtđảo san hô vòng Sabina cùng đảo Jackson, vùng quần đảo Trường Sa được đưa vào danh sách một trong tám điểm nóng xung đột trên thế giới. Cuối năm 1998, các căn cứ của Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa đã bao quanh các tiền đồn của Philippines. Một sỹ quan Hải quân hoàng gia Anh phân tích các bức ảnh chụp các kết cấu của Trung Quốc và tuyên bố rằng Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa "có lẽ đang chuẩn bị chiến tranh". Quan hệ giữa ManilaBắc Kinh đã xấu đi tới mức sắp xảy tới xung đột.
Đầu thế kỷ 21, như một phần trong chính sách ngoại giao lúc đầu được gọi là "khái niệm an ninh mới" và "sự lớn mạnh của Trung Quốc hoà bình", Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa giảm bớt chạm trán ở quần đảo Trường Sa. Gần đây Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa tiến hành thương lượng với các nước ASEAN nhằm mục đích thực hiện đề xuất tự do thương mại giữa 10 nước tham gia. Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa và ASEAN cũng đã thoả thuận đàm phán để đưa ra một bộ luật ứng xử nhằm giảm căng thẳng tại các đảo tranh chấp. Ngày 5 tháng 3 năm 2002, một thoả thuận đã ra đời, công bố mong ước của các nước liên quan giải quyết vấn đề chủ quyền "mà không sử dụng thêm nữa vũ lực". Tháng 11 năm 2002, một tuyên bố về ứng xử của các bên tại Biển Đông được ký kết, làm giảm căng thẳng nhưng không phải là một bộ luật ứng xử mang tính bắt buộc.
Bản đồ Biển Đông do người Hà Lan vẽ vào năm 1754 ghi nhận quần đảo Hoàng Sa dưới tên De Paracelles. (Trong giới hạn quần đảo De Paracelles, có 2 nhóm đảo, nhóm đảo phía nam tách rời (không được ghi chú) có hình dạng và vị trí tương đối giống với nhóm đảo Vạn lý Trường Sa (萬里長沙) của Đại Nam nhất thống toàn đồ).
Vào năm 2007, Việt Nam và hãng BP của Anh đang chuẩn bị thực hiện dự án trị giá hai tỷ đôla lắp đặt đường ống dẫn khí đốt thiên nhiên từ hai mỏ khí ở khu vực quần đảo Trường Sa thuộc vùng chủ quyền của Việt Nam đồng thời tổ chức bầu cử Quốc hội Việt Nam khóa XII sẽ được tiến hành ngày 20/5 tại quần đảo Trường Sa thì người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Lão Tần Cương nói trong buổi họp báo thường kỳ "Việt Nam áp dụng hàng loạt hành động mới trên quần đảo Nam Sa đã đi ngược với nhận thức chung quan trọng về các vấn đề trên biển" mà hai bên đã đạt được. Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Tần Cương gọi đây là hành động "xâm phạm chủ quyền lãnh thổ cũng như chủ quyền và quyền cai quản của Trung Quốc và Trung Quốc bày tỏ hết sức quan tâm việc này và đã giao thiệp nghiêm khắc với Việt Nam" trong lúc Chủ tịch Quốc hội Việt Nam Nguyễn Phú Trọng đang có chuyến thăm chính thức nước này. Trong khi phía Trung Quốc lại cho các công ty dầu khí, mà điển hình là PetroChina, thăm dò và khai thác dầu khí trong khu vực tranh chấp[5].
Sau đó vào tháng 6 năm 2007 phát ngôn nhân của BP Plc, ông David Nicholas, nói rằng hãng này thấy rằng "nên ngừng kế hoạch khảo sát địa chấn tại lô 5.2 để cho các nước liên quan có cơ hội giải quyết vấn đề". Khu thăm dò địa chấn, lô 5.2, mà BP dự định tiến hành nằm ở giữa Việt Nam và quần đảo Trường Sa, cách bờ biển Việt Nam khoảng 370 km. Tuy nhiên người phát ngôn của BP lại nói với Reuters rằng công việc tại các lô 5.2 và 5.3 là kế hoạch lâu dài chứ không phải trước mắt[6].
Trung Quốc ngày càng gây hấn bằng vũ lực trên quần đảo Trường Sa. Vào tháng 4 năm 2007 Trung Quốc đã bắt 41 ngư dân Việt Nam và chỉ trả tự do cho họ sau khi những người này nộp phạt. Đến ngày 9 tháng 7 tàu Hải quân Trung Quốc đã nã súng vào một số thuyền đánh cá của ngư dân Việt Nam trong vùng biển gần Trường Sa, cách Thành phố Hồ Chí Minh 350 km làm chìm một thuyền đánh cá của Việt Nam, ít nhất một ngư dân thiệt mạng và một số người khác bị thương. Nguyên nhân chính dẫn tới các mâu thuẫn gữa hai nước là trữ lượng trên 600 triệu thùng của Việt Nam mà Trung Quốc tuyên bố nằm trong vùng biển chủ quyền trong khi giá dầu thô có thể tăng lên đến 100 USD vào cuối năm 2007[7]. Phía Việt Nam cũng đã cho hai tàu chiến cơ động BPS-500 do Nga thiết kế lập tức đến hiện trường nhưng phải đứng từ xa vì hỏa lực quá mạnh từ tàu Trung Quốc. Mặc dù báo chí Việt Nam tránh đưa tin sự kiện trên[8] nhưng sau đó Thứ trưởng Ngoại giao Việt Nam Vũ Dũng đã đến Bắc Kinh từ 21/7 tới 23/7 để bàn về các vấn đề biên giới, đặc biệt là trên biển[9].

Việt Nam tuyên bố chủ quyền

Đảo Song Tử Tây, quần đảo Trường Sa (hiện nay thuộc xã Song Tử Tây, huyện Trường Sa, Khánh Hòa)

Việt Nam tuyên bố chủ quyền đối với đảo dựa trên vị trí lịch sử và trên nguyên tắc thềm lục địa. Các bản đồ địa lý cổ Việt Nam ghi chép Bãi Cát Vàng để chỉ cả Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ của Việt Nam từ đầu thế kỷ 17.
Việt Nam đã từng tiến hành nhiều cuộc khảo sát địa lý và tài nguyên trên quần đảo, và kết quả của các chuyến khảo sát đó đã được ghi chép trong văn học và lịch sử Việt Nam và được xuất bản kể từ thế kỷ 17. Hơn nữa, sau một hiệp ước ký kết với triều đại nhà Nguyễn, Pháp đại diện cho các quyền lợi của Việt Nam đối với các công việc quốc tế và đã thi hành chủ quyền trên quần đảo thay cho Việt Nam.
  • Trong bản đồ cổ "Hoàng triều trực tỉnh địa dư toàn đồ" (Toàn bộ bản đồ địa lý của đất nước) do nhà Thanh (Trung Quốc) xuất bản năm 1904, xác định đảo Hải Nam là điểm cực nam lãnh thổ Trung Quốc. Điều đó có nghĩa là các quần đảo ở Biển Đông như Hoàng Sa, Trường Sa nằm ngoài lãnh thổ Trung Quốc. Tấm bản đồ này được lập với khối tư liệu đồ sộ, được nhà vua Trung Quốc trực tiếp chỉ đạo thực hiện. Nó không chỉ tập trung trí tuệ của các nhà khoa học phương Tây mà cả Trung Quốc, cho thấy tính nghiêm túc, chính thống và giá trị khoa học của người Trung Quốc đối với bản đồ hiện đại đầu tiên được in ấn, làm theo thiết kế, kỹ thuật của phương Tây, đặc biệt với tỷ lệ xích rất chính xác.
Ngày 7 tháng 7 năm 1951, Trần Văn Hữu, chủ tịch phái đoàn chính phủ Quốc gia Việt Nam tới dự Hội nghị San Francisco về Hiệp ước Hoà bình với Nhật Bản tuyên bố rằng quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ lâu đã thuộc lãnh thổ Việt Nam. Tuyên bố này không bị bác bỏ hay bảo lưu ý kiến nào của 51 nước có mặt tại hội nghị. Sau khi Pháp rút đi, chính phủ Việt Nam Cộng Hòa đã thi hành chủ quyền trên quần đảo.
Ngày 22 Tháng Tám 1956 Hải quân Việt Nam Cộng hòa tiếp thu đảo Trường Sa, thượng quốc kỳ và dựng trụ đá ghi chủ quyền. Đến ngày 22 Tháng Mười thì chính phủ Việt Nam tuyên bố Trường Sa phụ thuộc tỉnh Phước Tuy.[10]
Ngày 21 tháng 06 năm 2012: Quốc hội Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 3 bỏ phiếu thông qua Luật Biển, gồm 7 chương, 55 điều. Ngay ở Điều 1 luật đã khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. [11]
Hiện nay Việt Nam giữ 21 đảo. Chúng được gộp vào thành một huyện thuộc tỉnh Khánh Hoà.

Philippines tuyên bố chủ quyền

Trong khi Philippines lần đầu tiên tuyên bố chủ quyền với quần đảo Trường Sa tại Đại hội đồng Liên hiệp quốc năm 1946, thì sự dính líu nghiêm túc của họ chỉ diễn ra vào năm 1956 khi vào ngày 15 tháng 5 công dân Philippines là Tomas Cloma tuyên bố lập ra một nhà nước mới, Kalayaan (Vùng đất tự do). Kalayaan của Cloma trải rộng trên toàn bộ phía đông Biển Đông, gồm cả toàn bộ quần đảo Trường Sa, đảo Ba Bình, Pagasa và đảo Nam Yết, cũng như đảo West York, đảo chìm North Danger, đảo chìm Mariveles và bãi cát ngầm Invertigator. Sau đó Cloma lập ra một thuộc địa vào tháng 7 năm 1956 với thủ đô là Pagasa và Cloma là "Chủ tịch hội đồng tối cao của nhà nước Kalayaan". Hành động này dù không được chính phủ Philippines xác nhận, vẫn bị các nước khác coi là một hành động gây hấn của Philippines và sự phản ứng quốc tế nhanh chóng xảy ra. Đài Loan, Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, Việt Nam Cộng Hòa, Pháp, AnhHà Lan đưa ra phản kháng chính thức (Hà Lan có liên quan vì họ coi quần đảo Trường Sa là một phần của New Guinea thuộc Hà Lan) và Đài Loan đã gửi lực lượng hải quân tới chiếm các đảo và lập một căn cứ ở đảo Ba Bình, và họ vẫn giữ tới tận ngày nay.
Tomas Cloma và Philippines tiếp tục tuyên bố chủ quyền của họ đối với quần đảo; tháng 10 năm 1956 Cloma tới Thành phố New York để trình bày sự việc trước Liên hiệp quốc và Philippines đã cho đóng quân trên ba đảo từ năm 1968 để bảo vệ các công dân Kalayaan. Đầu năm 1971 Philippines gửi một lưu ý ngoại giao nhân danh Cloma tới Đài Bắc yêu cầu Cộng hoà Trung Hoa rút quân khỏi đảo Ba Bình và ngày 10 tháng 7 cùng năm Ferdinand Marcos thông báo sự sáp nhập nhóm 53 hòn đảo mà họ gọi là Kalayaan, mặc dù cả Cloma và Marcoss không chỉ rõ 53 đảo nào tạo thành Kalayaan, người Philippines bắt đầu tuyên bố chủ quyền ở càng nhiều nơi càng tốt. Tháng 4 năm 1972 Kalayaan chính thức sáp nhập với tỉnh Palawan và được quản lý như một poblacion (khu vực nhỏ), với Tomas Cloma là chủ tịch hội đồng khu vực và tới năm 1992 có 12 cử tri được đăng ký ở Kalayaan. Philippines cũng liên tục cố gắng đổ quân xuống đảo Ba Bình năm 1977 để chiếm đảo nhưng bị quân đội Cộng hoà Trung Quốc đóng trên đảo đẩy lùi. Không có báo cáo về thương vong trong xung đột. Năm 2005, một trạm điện thoại di động được lắp đặt ở đảo Pagasa bởi Smart Communications của Philippines.
Hải quân Việt Nam duyệt binh trước cột mốc chủ quyền Trường Sa

Người Philippines đưa ra res nullius và địa lý làm cơ sở cho tuyên bố chủ quyền của mình. Cái cho rằng Kalayaan của Philippines là res nullius bởi vì không có nỗ lực giành chủ quyền nào với các đảo cho tới thập niên 1930, khi người Pháp và sau đó là người Nhật chiếm đảo. Khi Nhật Bản tuyên bố rút lui chủ quyền đối với các đảo trong Hiệp ước Hoà bình San Francisco, đã có một sự từ bỏ quyền đối với các đảo mà không có bất kỳ một bên yêu cầu chủ quyền nào. Vì thế, người Philippines cho rằng quần đảo trở thành res nullius và có thể được sáp nhập. Nhà kinh doanh người Philippines Tomas Cloma đã làm đúng điều đó vào năm 1956 và trong khi Philippines không bao giờ chính thức ủng hộ tuyên bố chủ quyền của Cloma, trong lúc chuyển giao chủ quyền đảo từ Cloma sang Philippines, người Philippines sử dụng đúng quyền tuyên bố chủ quyền như Cloma đã từng làm. Philippines yêu cầu Kalayaan về các căn cứ địa lý có thể tóm tắt bằng cách khẳng định rằng Kalayaan là riêng biệt khỏi các nhóm đảo khác ở Biển Đông bởi vì:
"Có sự công nhận chung về thông lệ hải dương học coi một dãy các đảo có tên thuộc về đảo lớn nhất trong nhóm hay có tên dựa theo sự tập hợp chung. Ghi chú rằng Trường Sa (đảo) chỉ có diện tích 13 hectare so với diện tích 22 hectare của đảo Pagasa. Xét về mặt khoảng cách, đảo Trường Sa cách quần đảo Pagasa 210 m. Điều này nhấn mạnh lý lẽ rằng chúng không phải là phần của cùng một dãy đảo. Quần đảo Hoàng Sa còn ở xa hơn (34.5 km tây bắc đảo Pagasa) rõ ràng là một nhóm đảo khác."
Một lý lẽ thứ hai được Philippines sử dụng liên quan tới tuyên bố chủ quyền địa lý của họ đối với Trường Sa là những đảo thuộc phần tuyên bố chủ quyền của Philippines nằm bên trong đường căn bản quần đảo của họ, họ là nước duy nhất có thể tuyên bố như vậy. Hội nghị Liên hiệp quốc về luật biển (UNCLOS) năm 1982 nói rằng các nước bờ biển có thể tuyên bố 200 dặm biển tài phán từ biên giới đất liền của mình. Có thể điều đó có nghĩa rằng trong khi Philippines là một nước đã ký kết vào UNCLOS, Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa và Việt Nam vẫn chưa tham gia. Philippines cũng viện lý lẽ rằng, theo các điều khoản của Luật biển, Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa không thể mở rộng đường căn bản của mình tới Trường Sa bởi vì Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa không phải là nước có biển đảo. Việc lý lẽ này (hay bất kỳ lý lẽ nào khác của người Philippines) có được đưa ra trước toà án để tham khảo và tranh cãi hay không còn chưa chắc chắn, khi Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa và Việt Nam còn chưa muốn chứng minh các yêu cầu chủ quyền của mình theo pháp lý và bác bỏ các nỗ lực của Philippines nhằm đưa sự tranh cãi ra trước Toà án biển thế giớiHamburg.

Trung Quốc tuyên bố chủ quyền

Vào năm 1958, Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa cũng tuyên bố chủ quyền của mình dựa trên vị trí lịch sử. Sau này họ cho rằng quần đảo Trường Sa đã từng là một phần thuộc Trung Quốc trong gần 2.000 năm và đưa ra các thư tịch cổ có nhắc tới quần đảo Trường Sa và những mảnh đồ gốm Trung Quốc và tiền được tìm thấy ở đó để chứng minh. Sử dụng lý lẽ này, Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa đã tuyên bố rằng Philippines đã "lấy" 410.000 km² biên giới biển truyền thống của họ, lợi dụng lúc Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa bị tẩy chay khỏi các công việc quốc tế. Một số nhà phân tích đặt câu hỏi về sự chính xác của các tuyên bố chủ quyền đó, tuy nhiên:
"Sẽ không có tính thuyết phục nếu cho rằng việc tìm thấy các đồng tiền xu thời Hán và các đồ gốm trên quần đảo Hoàng Sa chỉ riêng nó có thể coi là cơ sở chứng minh cho yêu cầu chủ quyền của Trung Quốc vào những năm 1990. Sự hiện diện của những vật đó có thể chỉ đơn giản chứng minh rằng đã có các quan hệ thương mại giữa Trung Quốc và Đông Nam Á hơn là cho thấy sự hiện diện của người Trung Quốc ở quần đảo Trường Sa đang tranh cãi."[cần dẫn nguồn]
Không có ghi chép chính thức nào về việc người Trung Quốc đã tới đảo và các liên hệ tạm thời của ngư dân không đủ để làm bằng chứng cho bất kỳ một yêu cầu chủ quyền nào dựa trên vị trí lịch sử. Tuy nhiên họ trưng ra nhiều ghi chép chính thức và bản đồ từ thời nhà Hán, nhà Nguyên, nhà Thanh và Cộng hoà Trung Hoa có tính đến quần đảo Trường Sa trong lãnh thổ Trung Quốc.
Năm 1958 Thủ tướng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Phạm Văn Đồng gửi Thủ tướng Quốc vụ viện Trung Quốc công hàm ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của chính phủ Trung Quốc quyết định về hải phận của Trung Quốc. Công hàm này cũng đăng trên báo Nhân Dân ngày 22 tháng 9 cùng năm.[12] Theo Bộ Ngoại giao Trung Quốc, sự công nhận này "đương nhiên có giá trị với toàn bộ lãnh thổ Trung Quốc" vì báo Nhân Dân trước đó đã đăng bài chi tiết về bản tuyên bố về lãnh hải của chính phủ Trung Quốc, trong đó nói rằng "kích thước lãnh hải của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là 12 hải lý và điều này được áp dụng cho tất cả các vùng lãnh thổ của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, bao gồm tất cả các quần đảo trên biển Đông"[13]. Theo Bộ ngoại giao Việt Nam, Trung Quốc đã diễn giải công hàm của Phạm Văn Đồng một cách "xuyên tạc", khi nội dung công hàm không đề cập đến Hoàng Sa và Trường Sa, không hề tuyên bố từ bỏ chủ quyền với 2 quần đảo này, mà chỉ công nhận hải phận 12 hải lý (22.2 km) của Trung Quốc[14][15][16][17][18]Tiến sĩ Balazs Szalontai, một nhà nghiên cứu về châu Á, cho rằng công hàm không có sức nặng ràng buộc pháp lý.[19]
Ngoài ra, theo phía Trung Quốc, Thứ trưởng ngoại giao Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Ung Văn Khiêm đã nói rằng: "Theo dữ liệu của Việt Nam, các quần đảo Tây Sa và Nam Sa là phần lãnh thổ mang tính lịch sử của Trung Quốc". Một bài giảng về Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa trong sách giáo khoa chuẩn của Việt Nam phát hành năm 1974 đã ghi rằng các đảo từ quần đảo Nam Sa và Tây Sa đến Hải Nam và Đài Loan tạo thành bức trường thành bảo vệ lục địa Trung Quốc. Nhiều quốc gia trên thế giới như Hoa Kỳ, Liên Xô, Nhật Bản, Anh Quốc, Pháp, Tây Đức, Đông Đức cũng từng phát hành các bản đồ, át-lát địa lý trong đó thể hiện Nam Sa hoặc các quần đảo trên Nam Hải là lãnh thổ Trung Quốc.[13]
Vào tháng 7/2012 ,báo chí Việt Nam đưa ra bằng chứng về chủ quyền của Việt Nam đối với các quần đảo ở Biển Đông đó là tấm bản đồ của Nhà Thanh xuất bản năm 1904 trong đó điểm cực nam của Trung Hoa chỉ dừng lại ở đảo Hải Nam mà không hề có tây sa hay Nam sa mà Trung Quốc đang cố gắng chiếm giữ.[cần dẫn nguồn]

Ma Văn - Thể - Du


Có lẽ, Bộ Văn hóa, Thể Thao & Du lịch nên đổi slogan cho ngành du lịch Việt Nam thành “Đất nước ma thuật” - thay cho slogan đang dùng là“Vẻ đẹp bất tận” thì hợp lý hơn. Ở chỗ, dù đã gào lên ầm ĩ (chắc chắn không chỉbằng nước bọt) nhưng đến nay, chả mấy ai nhớ slogan của Bộ. Thêm vào đó, “đất nước ma thuật” nghe ấn tượng hơn, hấp dẫn hơn và cơ bản, “slogan” này phản ánh chân thực những giá trị cơ bản mà Việt Nam đang sở hữu.

Sao lại gọi Việt Nam là “Đất nước ma thuật”? Trước hết bởi để tìm kiếm những giá trị thật ở đất nước này cực khó, nếu chẳng muốn nói là không thể. Nói cách khác, những giá trị thật không có đất sống trong môi trường Việt Nam, buộc phải sói mòn rồi cạn kiệt. Cũng xin lưu ý, môi trường Việt Nam mà tôi nói ở đây không khu biệt trong nước hay ngoài nước hay thể chế chính trị nào mà ý nói đến ở những nơi có mặt người Việt sinh sống. Đơn giản nhất như việc nói thật hay bị ném đá bởi người ta chỉ chuộng lối nói dối, nói trái với suy nghĩ của mình. Sự giả dối ăn sâu vào máu của người Việt - thứ mà thiếu đi, người Việt sẽ không còn là người Việt nữa. Tất cả biến Việt Nam thành một dân tộc vô liêm sĩ một cách đáng kính trọng.

Từ nạn giả dối tràn lan khắp các hang cùng ngõ hẹp, từ mạn xuôi lên mạn ngược, từ trung ương tỏa ra các địa phương để chẳng nơi đâu mà các khái niệm dễ dàng bị người ta…đánh tráo hơn thế. Nhà ma thuật David Copperfield có thể nổi tiếng ở đâu đó bằng cách đi xuyên vạn lý trường thành, có thể nhấc bổng cả đoàn tầu chục toa lên khỏi mặt đất, có thể biến con bồ câu trên tay thành con ngựa vằn (và ngược lại) nhưng đến Việt Nam thì chịu thôi. Bởi để biến một Đàm Vĩnh Hưng thành văn công cộng sản và phù phép một Trọng Tấn, Anh Thơ thành những kẻ vì cái tôi cá nhân và (gần như) phản bội lại đất nước thì chỉ có mỗi Việt Nam làm được. Chính xác hơn là mỗi Bộ Văn hóa Thể Thao Du lịch Việt Nammới làm được, David Copperfield chịu. Nếu được đề nghị và trả cho một khoản thù lao kếch xù thì anh ta cũng chịu và chỉ biết ngơ ngác rồi bỏ của chạy lấy người.

Đàm Vĩnh Hưng chính xác chỉ là một ngôi sao giải trí, là ông hoàng của làng showbiz và thứ tư tưởng nếu có chỉ là chủ nghĩa hiện kim hiện vật. Anh ta làm nghề vì đam mê và kiếm tiền để nuôi dưỡng, tỉa tót đam mê. Chấm hết. Đàm Vĩnh Hưng là người chịu thụ hưởng cuộc sống nên nơi nào đáp ứng được cho sự thụ hưởng thì anh sẽ hướng về nó. Như từng có lần Đàm Vĩnh Hưng muốn tuồn sang Mỹ nhưng kế hoạch bất thành (rớt phỏng vấn), anh đành phải ở lại ViệtNam. Trong não bộ của cộng sản, không có tên của Đàm Vĩnh Hưng. Nếu có chỉ là sựtưởng tượng của dăm ba cái đầu đầy cám lợn ở đâu đó trong cộng đồng người Việt ở hải ngoại.

Ngược lại là Trọng Tấn, dù hình ảnh không được phủ sóng theo diện rộng, không nằm lòng trong mọi tầng lớp công chúng cùng với “mật độ” của những lần ra album thưa thớt (và ca sĩ như anh cũng chẳng cần phải tung ra quá nhiều album làm gì) nhưng trong lãnh địa nhạc đỏ, Trọng Tấn là địa chủ của những địa chủ. Không chỉ co cụm trong lãnh địa nhạc đỏ mà vươn ra nhạc nhẹ, nếu Thanh Lam được mặc định là diva hàng đầu thì không ai khác ngoài Trọng Tấn là divo số 1 của nhạc Việt. Là bởi, xét về âm sắc, Trọng Tấn là giọng hát nam đẹp nhất, quý nhất Việt Nam hiện nay. Nói về tư duy âm nhạc, chẳng nam ca sĩ nào sở hữu được một tư duy âm nhạc văn minh hơn thế. Tư cách thì miễn bàn, giữa một làng âm nhạc xô bồ và nhộn nhạo, Trọng Tấn không bị cuốn theo vòng xoáy của thị trường mà tách hẳn thành một dòng chảy riêng tư để giữ được cho mình một thế đứng từ tốn mà độc tôn, vững chãi. Không dừng lại ở một giọng hát đẹp, một tư duy âm nhạc văn minh, một tư cách sạch sẽ, Trọng Tấn còn là tấm gương, là đích đến mẫu mực của các thế hệ ca sĩ sau này hay ít nhất nếu chả được thế, tài năng và tư cách của anh vượt trội và hơn hẳn lắm anh, lắm bà cộm cán trong cái bộ có cái tên mỹmiều Văn hóa Thể Thao & Du lịch. Với mình, Trọng Tấn là báu vật quốc gia.

Trở lại với công điện của Cục trưởng Cục Hợp tác quốc tế Nguyễn Văn Tình yêu cầu kỷ luật Trọng Tấn (và Anh Thơ) theo mình là một loại công điện VỚ VẨN, NHẢM NHÍ. Công điện ấy nó RẺ TIỀN hơn cả Ngọc Huyền. Vì sao mình bảo thế? Vì tinh thần của của cái gọi là công điện ấy nó đậm đặc mùi vị của sự THÙ VẶT theo cảm tính cá nhân, là cái sự THỂ HIỆN TA ĐÂY QUYỀN LỰC của dăm ba vị tai to mặt lớn (và dày nữa) của Bộ Văn hóa Thể Thao & Du lịch. Đấy thực chất là TƯ ĐIỆN chứ CÔNG ĐIỆN quái gì. Ở đây hình như có sự lạm dụng quyền hạn để trút bỏ những ẩn ức cá nhân, họ mượn cái CÔNG ĐIỆN cho sang để che dấu, lấp liếm cho sự HÈN MỌN của mình. Là trừng phạt theo kiểu ĐÀN BÀ í. Ý, anh là người của Bộ thuộc Trung Ương, quyền lực của anh to thế mà chúng mày dám đặt dưới cơ của mấy thằng ở Ninh Bình à. Anh giận nên anh kỷ luật. Chuyện chỉ đơn giản thế chứ làm đéo gì có cái gọi là ý thức chính trị gì ở đây. Ối giời, các anh mà ý thức chính trị sâu sắc thế thì quá phúc cho đất nước này. Tiếc là những thứ mà các anh đang hồn nhiên bày ra thì có độ lượng đến mấy thì người ta cũng khó mà cho rằng các anh có ý thức chính trị. Nhân đạo (hay xuề xòa) hơn thì cứ cho là có cơ mà cái ý thức ấy của các anh nó qua loa, đại khái lắm. Nó sơ xài một cách đáng kinh ngạc.

Dưới đôi mắt của một người quan sát bình dân thôi người ta cũng phải thấy Chương trình nghệ thuật chào mừng năm đoàn kết hữu nghị Việt Nam – Lào là một sự kiện văn hóa đặc biệt quan trọng. Về mặt tư tưởng thì đây là chương trình đánh dấu tình hữu nghị Việt Lào, nó có sự tham dự của các lãnh đạo cao cấp của hai nước. Sâu hơn thế, có mù lòa đui chột thì cũng phải thấy giai đoạn hiện nay là giai đoạn cực kỳ nhậy cảm, Việt Nam đang rất cần sự đồng thuận, ủng hộ của các nước láng giềng trong khu vực trước sự nhũng nhiễu của Bắc Kinh thì các chương trình như thế sẽ có ý nghĩa hơn bao giờ hết. Trong khi Trung Quốc tung tiền để mua khu vực, ta chả có nên chỉ tranh thủ cái tình thì phải biết tổ chức sao cho cẩn thận chu đáo chứ. Mà chả cần phải đợi đến khi nhậy cảm, các chương trình ở cấp quốc gia thế này phải được tổ chức một cách chuyên nghiệp, bài bản bởi những chương trình như thế là bộ mặt quốc gia kia mà. Nói xin lỗi, nhìn vào những gì các bố đang làm người ta thấy các bố tổ chức chương trình nghệ thuật cao cấp mà còn kém hơn văn nghệ đám cưới miệt vườn. Chuẩn bị thì qua loa, đại khái rồi cũng chả có phương án bọc lót, dự bị để thay thế nếu có sự cố. Ai đời giao cho NSND Quang Thọ, sắp đến ngày diễn thì nghệ sĩ này bị ngã thế là cấp tập cử Trọng Tấn đi thay. Làm ăn kiểu đấy thì họ đỡ cho đã là may, lại còn dỗi. Nói xin lỗi, một event, một hội nghị khách hàng người ta đã chuẩn bị trước đó vài tháng và có đủphương án thay thế trong khi đây là chương trình cao cấp mà các bố cứ duy trì theo kiểu nhà quê. Xét nét nữa người ta thấy chả ai khác ngoài các bố cực kỳchủ quan và xem nhẹ mối quan hệ với Lào. Thử thay chữ Lào bằng Hoa Kỳ hay Nhật Bản thì các bố có dám giữ cái phong cách tổ chức như thế không? Như vậy thì nếu có ý thức chính trị thì các bố phải tự vả vào mồm các bố trước chứ làm gì đã đến lượt Trọng Tấn hay Anh Thơ. Quên mất, các bố xưa nay mải mê làm bố mẹ đời hoặc mặt đã dày như bê tông thì làm đéo gì còn khái niệm xấu hổ đẻ mà tự kỷluật mình. Mới nói là nuôi cái ngữ như các bố lãnh đạo Bộ Văn hóa Thể Thao Du lịch hiện nay nó phí cơm phí gạo của dân kinh lắm! Chỉ giỏi ăn chia cho mập mặt chứ có làm gì ra hồn đâu mà hở miệng ra là nó bảo đứa này ý thức chính trị non kém, khép mồm lại thì nó bảo nghệ sĩ giờ đây đặt cái tôi của mình trên lợi ích đất nước. Thằng nào trong Bộ Văn hóa Thể Thao & Du lịch mạnh dạn bước ra vỗ ngực xưng tên bảo mình ý thức chính trị sâu sắc để em Hà Cao và mọi người có cơ hội được nhìn thấy và ngưỡng mộ thử xem. Toàn nói láo!

Tiện thể đang nói về ý thức chính trị thì cũng xin nói luôn là khi làm văn hóa thì không cần phải đến chương trình chào mừng hữu nghị với nước nào đó thì ý thức chính trị mới có dịp trỗi dậy mà nó phải được thể hiện thường xuyên và rõ nét trong các hoạt động văn hóa trong nước. Mà các bố có hiểu ý thức chính trị ở đây là gì không? Các bố làm lãnh đạo văn hóa mà phải nói thật là các bố ngu và u mê lắm! Xin thưa các bố ý thức chính trị ở đây không phải là ca đi ca lại mãi bài ca ngợi Đảng cộng sản quang vinh muôn năm, chủ tịch Hồ Chí Minh sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta hay ca ngợi đất nước thời đổi mới nhé bởi đó là thứ ý thức được hiểu theo nghĩa thô sơ và thấp nhất có thể. Ý thức chính trị ở đây là ở chất lượng, là bề sâu của các chương trình, lễ hội văn hóa. Đó là ý thức chính trị ở bậc cao, khi sở hữu được nền tảng ý thức này người ta sẽ hiểu được giá trị to lớn mà văn hóa mang lại cho đời sống. Các hoạt động văn hóa có chất lượng thì tự thân vẻ đẹp của nó sẽ lan tỏa ra cộng đồng, len lỏi vào đời sống và từ đó Việt Nam mới đẹp lên được. Và từ sự đẹpđẽ đấy nó mới tác động tích cực ra thế giới. Nói nôm na là đẹp từ bên trong đấy ạ! Đến đây thì các bố tự soi gương thành tựu của các bố thử xem?

Ta chưa cần phải lấy ví dụ ở đâu cho xa. Hãy lấy một đất nước bị cho là cực đoan, khép kín, kinh tế còn nghèo và lệ thuộc nặng nề vào Trung Quốc là Bắc Triều Tiên nhé! Ở đất nước còn khó khăn là thế mà họ đã có một lễ hội đặc sắc và gây ấn tượng mạnh với thế giới. Đó chính là lễ hội Ariang (Clip)

Nhìn lại xứ sở của các bố thừa mứa ý thức chính trị xem các lễ hội văn hóa thế nào? Xin thưa là năm mười hai tháng, chừa mỗi cái toalet chứ đến chỗ nào cũng đụng lễ hội. Này thì lễ hội hoa, sách, phim, nhạc, pháo, biển, dân tộc, đua thuyền, trái cây, lựu đạn…Vài năm trở lại đây còn có lễ hội kinh khí cầu – một lễ hội phải nói là vô duyên, vô hậu nhất Việt Nam. Trong khi bao lễhội giàu bản sắc của dân tộc đang dần bị mai một và cần được thời đại hóa thì các bố chả làm dưng đi lôi về một lễ hội chả ăn nhập gì đến Việt Nam. Chắc ý các bố là thời này nên tha hồ nhập lễ hội để được tiếng chịu hội nhập.

Lễ hội lắm liên hoan cũng lắm nhưng tổ chức chả ra đâu vào đâu để cuối cùng, các lễ hội cứ thế mà thi nhau nhợt nhạt, thiếu sức sống rồi chết yểu. Bởi lễ hội A cũng bân bẩn như lễ hội B, lễ hội B cũng nhếch nhác tựa lễ hội C, lễ hội C thì lem luốc y chang lễ hội D, chả lễ hội nào ra lễ hội nào. Công thức chung vẫn là dựng sân khấu hoa hòe hoa sói, treo dàn đèn nhấp nháy rồi ca sĩ cứ thế mà quốc ca, đảng ca, tỉnh ca, ngành ca… Cũng chả nơi đâu mà hội chợ, lô tô cùng các gian trò chơi có thưởng như ném lon, ném vòng, ném chun cũng được cho là lễ hội. Nói cách khác, lễ hội ở ta chả khác những cái thai non mà những ông bố bà mẹ đẻ không nỡ, nạo hút không đành, nó cứ ất ơ nửa làng nửa chợ. Người ta cứ thích làm thật nhiều vào, rộn ràng vào, trước khi lễ hội diễn ra thì nổ và khoe mẽ đủ các kiểu, rằng thì lễ hội của chúng tôi sẽ hay hớm thếnày, đặc sắc thế nọ nhưng sau đó cứ trôi tuồn tuột, lễ hội xong không còn đểlại chút ấn tượng gì. Có chăng dăm màn tố nhau của những người trong BTC. Mà lỗi này đâu phải ở họ, đúng hơn là tầm vóc của các nhà quản lý văn hóa – ở đây là Bộ Văn hóa Thể Thao & Du lịch quá kém. Kém cả về ý thức, về tài

Ngoài lễ hội ra thì dân trí và đời sống tinh thần của người dân đang được Bộ Văn hóa Thể Thao & Du lịch ở ta lo lắng thế nào ạ? Ai ởTP.HCM thi thoảng rảnh thì nhớ ra các công viên mà xem Sở Văn hóa Thể Thao& Du lịch TP.HCM tổ chức các chương trình ca múa nhạc tạp kỷ trong những dịp mừng Đảng mừng xuân thì không buồn nôn ói mửa mới lạ…Rồi cái gọi là văn hóa của thủ đô ngàn năm văn vật hiện đang thế nào nhỉ!? Vứt mẹ nó vào sọt rác chứ khỏi cần phải bình bàn làm gì cho đau đớn.

Tóm lại là, các bố ý thức chính trị cực kém, giỏi nhất có lẽ ở khoản chơi gái, chia chác, ký cọt nhận tiền. Ra đến quốc hội, cùng với bộtrưởng Bộ TTTT, bộ trưởng Bộ Văn hóa Thể Thao Du lịch phải nói là nhàn nhạ nhất, lành lặn nhất sau mỗi kỳ họp vì các đại biểu quốc hội ở ta (vì thông minh quá chả hạn) chỉ truy các Bộ đang nắm các lĩnh vực sát sườn với đời sống như giao thông, điện đóm, thực phẩm, thuốc thang…còn văn hóa thì hiếm khi nào các đại biểu quốc hội rớ tới. Mà có lẽ muốn rớ thì các vị í cũng chả biết rớ chỗ nào. Là bởi văn hóa là một phạm trù trừu tượng, khó nắm bắt, nó không rõ ràng, chính xác về mặt con số nên các đại biểu của nhân dân lờ luôn cho lành, cho đỡ mang tiếng dốt nếu sẩy miệng. Thế nên mang tiếng là quốc gia có nền văn hóa dài bốn nghìn năm nhưng hiện tại, chúng ta như một quốc gia vô văn hóa vậy. Nếu có chỉ là thứ văn hóa giả cầy.

Mà ngẫm cũng buồn cười nhỉ! Công điện gần như là ý chỉ của quốc gia, của đại cục, ít hay nhiều nó thiêng liêng lắm chứ đâu phải là thứ cứmuốn, cứ thích cứ hứng lên bất tử là lôi ra ký hả các bố. Các bố được Đảng, nhà nước giao cho trọng trách quản lý văn hóa thì trước hết phải ý thức được điềuđó chứ sao cứ hành xử như một lũ dở hơi thế!? Lần sau, muốn giải quyết những ẩnức cá nhân, những dỗi hờn vặt vãnh thì các bố tự điện rồi gọi ông bà, dòng tộc các bố ra mà ký. Công điện là của nhà nước, không phải của ông bà các bố để lạiđể rồi muốn làm gì thì làm, muốn ký sao thì ký. Lũ nhà quê!

Thông tin thêm: Hôm qua đọc được bài PV NSƯT Trần Bình –Giám đốc Nhà hát Ca múa nhạc nhẹ Việt Nam mà ngẩn ngơ cả buổi. Bởi cái đầu toàn bã đậu thế sao lại có thể chễm chệ ngồi vào cái ghế giám đốc Nhà hát Ca múa nhạc Việt Namnhỉ! Quên mất, ở ta nếu chả dốt, chả nhạt và rỗng tuếch thế thì ai cho lên làm quản lý văn hóa. Nhỉ!?
@by Hà Cao, bansac.net

81 ngày đêm máu lửa tại Thành Cổ Quảng Trị

Lời dẫn: Dù ngày 27/7 đã đi qua, song vừa đọc bài này nghĩ post sang đây để rộng đường tìm hiểu.


Nhân kỷ niệm 40 năm về những sự kiện bi tráng tại chiến trường Quảng Trị, tôi (Ích Duệ) xin tổng hợp rất ngắn gọn từ các nguồn tài liệu khác nhau về bối cảnh, về lực lượng tham gia, về những tổn thất to lớn, không kể xiết về con người trong những tháng năm máu lửa, ác liệt đó. Tôi cũng có đưa ra một vài ý kiến cá nhân.

 

Chiến tranh thật khốc liệt. Biết bao máu xương người Việt của cả hai phía đã đổ trên mảnh đất này. Viết lại những dòng này để chúng ta biết thêm về cuộc chiến mà cả hai cùng tuyên bố chiến thắng. Và nếu có thể, trong tương lai, đừng có thêm những “81 ngày đêm” kia nữa.

1. Bối cảnh

Kể từ sau chiến dịch Mậu Thân năm 1968 đến năm 1972 bốn năm trôi qua. Lực lượng của Quân đội nhân dân Việt Nam đã hồi phục và ngày càng lớn mạnh. Sau Mậu Thân, Hoa Kỳ buộc phải ngồi vào bàn đàm phán Việt Nam Dân chủ cộng hòa ở Paris.

Năm 1972 chính quyền Nixon mở đột phá khẩu trong quan hệ với Trung Quốc và Liên Xô. Các nước lớn muốn dùng Việt Nam như một con bài trên bàn thương lượng, đàm phán vì lợi ích riêng của mình.

Năm 1972 là năm bầu cử Tổng thống Mỹ. Không có ứng cử viên nào muốn gây bất bình trong dư luận công chúng Mỹ

Bộ Chính trị, Trung ương Đảng Lao động Việt Nam cho rằng, đây chính là thời điểm rất thích hợp để mở một trận đánh chính quy lớn, hợp đồng binh chủng vào lực lượng quân đội của chính quyền Việt Nam cộng hòa tại Mặt trận Quảng Trị, giáng cho chúng những đòn chí mạng.

Về điều kiện thiên nhiên, giai đoạn ác liệt nhất của chiến trường Quảng Trị năm 1972 diễn ra trong thời tiết mưa to nhiều ngày. Nước sông dâng cao, công sự sũng nước. Việc cung cấp đạn được và tiếp tế lương thực, thực phẩm rất khó khăn. Lực lượng phòng ngự trên các chốt, lính tráng phải tát nước suốt ngày suốt đêm, hầm hào bị sụt lở không còn tác dụng che chắn đạn bom.

2. Lực lượng tham gia của hai bên

2.1. Quân đội Nhân dân Việt Nam:


- Các sư đoàn bộ binh: 304, 308, 320B, 324 và 325, sau được tăng cường thêm Sư đoàn 312 từ Lào về.
- 2 trung đoàn tăng, thiết giáp: 202 và 203 với hơn 100 xe tăng T- 34, T- 54, PT 76.
- Một số tiểu đoàn đặc công.
- Bốn trung đoàn pháo binh cơ giới với 408 khẩu gồm: 63 khẩu pháo chiến dịch 130mm, 93 khẩu pháo cấp sư đoàn (122 ly và 105 ly) và 247 khẩu pháo cùng bộ binh (sơ pháo 76mm hoặc 85mm).
- Hai sư đoàn phòng không: Sư đoàn 367 và 376 với 3 trung đoàn pháo phòng không 282, 284, 224 và hai trung đoàn tên lửa 238, 237 với tên lửa đất đối không SA-2.
- Một số trung đoàn công binh.
- Các lực lượng tại chỗ của Mặt trận B5, B4 và Đoàn 559.

2.2 Quân lực Việt Nam Cộng hòa:


- 2 sư đoàn bộ binh 1 và 3.
- Sư đoàn dù và Sư đoàn thủy quân lục chiến.
- 4 trung đoàn và 2 chi đoàn thiết giáp: thiết đoàn 7, 18 kị binh, trung đoàn 51 bộ binh.
- 17 tiểu đoàn pháo binh gồm 258 khẩu đại bác cỡ 105mm trở lên (chưa kể các loại pháo bắn thẳng), một số tiểu đoàn công binh.

2.3. Quân đội Hoa Kỳ:
 * Không quân:
- 2 không đoàn máy bay chiến lược B-52 (D và G)
- 1 liên đội máy bay F-111
- 5 liên đoàn không quân chiến thuật F-4 và A-7
- 2 liên đội trinh sát và tác chiến điện tử SR-71, EB-66, EC-121, F-105G
- 2 liên đoàn tiếp dầu KC-135

* Hải quân:
- 6 Tàu sân bay, 135 tàu tuần dương, tàu khu trục và tàu nổi khác.

Lính tráng chúng tôi gọi pháo từ Hạm đội 7 là pháo bầy, pháo giàn, pháo chụp. Mỗi lần máy bay chiến lược B52 xuất kích từ Thái Lan, chúng tôi đều được báo trước nhưng biết chạy đi đâu.

Thống kê cho thấy thị xã Quảng Trị bị lực lượng không quân và hải quân Hoa Kỳ tàn phá với 328.000 tấn bom đạn, 9552.000 viên đạn pháo 105mm, 55.000 viên đạn pháo 155 mm, 8164 viên đạn pháo 175mm, hơn 615.000 viên đạn hải pháo, 2240 lần oanh tạc của không quân (tổng số bom đạn trong 81 ngày đêm bằng sức công phá của 7 quả bom nguyên tử Mỹ ném xuống Nhật Bản). Có ngày số bom Mỹ ném ở Quảng Trị vượt xa số bom Mỹ ném trên toàn miền Nam trong hai năm 1968-1969. Dữ dội nhất là ngày 25/7, thị xã phải chịu 5000 quả đạn pháo. Thị xã Quảng Trị với 3 km2 và vùng ven có ngày phải chịu hơn hai vạn quả đạn đại bác cỡ lớn.

Những người chốt giữ Thành Cổ đã chứng kiến hàng chục loại bom pháo khác nhau như: Bom đào, bom phạt, bom bi, bom na ban, pháo khoan, pháo chụp, pháo càng. Đặc biệt lần đầu tiên trên chiến trường Quảng Trị, Mỹ đã dùng loại bom dù – một loại bom mà khi thả xuống lưng chừng, một quả bom mẹ nổ thành hai quả bom con, những quả bom con ấy cũng được dù mang cứ lừ lừ rơi xuống, trông thấy hẳn hoi mà không có cách gì phá nổi.

Xét về trang bị thiết bị kỹ thuật, vũ khí, Quân lực Việt Nam cộng hòa có không quân riêng với hơn 1.200 máy bay; Quân đội nhân dân Việt Nam chỉ có gần 100 máy bay tiêm kích chỉ đủ phòng thủ không phận miền Bắc. Quân lực Việt Nam cộng hòa có hơn 400 máy bay trực thăng chở quân và yểm hộ mặt đất; Quân đội nhân dân Việt Nam không có. Quân lực Việt Nam cộng hòa có không quân chiến thuật (TAC),không quân chiến lược (SAC) (chủ yếu là B-52) và các pháo hạm của Hạm đội 7 yểm hộ; Quân đội nhân dân Việt Nam không có. Bộ binh, quân dù, thủy quân lục chiến của Quân lực Việt Nam cộng hòa tiếp cận chiến trường và tham chiến bằng máy bay trực thăng, tàu đổ bộ LCU, xe thiết giáp M-113 các loại quân xa khác; bộ binh Quân đội nhân dân Việt Nam chủ yếu tiếp cận chiến trường bằng đôi chân. Quân đội nhân dân Việt Nam có SAM-2, SAM-7 và pháo cao xạ nhưng phải vừa yểm hộ chiến trường, vừa phòng thủ toàn bộ không phận miền Bắc với cơ số đạn hạn chế do Trung Quốc cố tình làm chậm việc chuyển hàng quân sự từ Liên Xô đến Việt Nam và Không lực Hoa Kỳ phong tỏa các cảng của Bắc Việt Nam từ ngày 6 tháng 4 năm 1972. Trong năm 1971, Quân đội nhân dân Việt Nam chỉ nhận được 58 xe tăng T-54, 18 xe tăng T-59 (do Trung Quốc chế tạo), 27 xe tăng lội nước hạng nhẹ PT-76 (do Ba Lan chế tạo). Dù sao, Quân đội nhân dân Việt Nam cũng đã có thể huy động một lực lượng tăng thiết giáp tham gia chiến dịch lớn nhất từ trước đến nay.

Như vậy, xét về số lượng đơn vị tham chiến, lực lượng Quân đội nhân dân Việt Nam nhiều hơn. Tuy nhiên, xét về số lượng quân trực tiếp chiến đấu, Quân đội nhân dân Việt Nam không nhỉnh hơn mà thậm chí còn ít hơn vì hàng ngày bị thương vong rất lớn bởi hỏa lực pháo, bom của Không quân và Hải quân Hoa Kỳ và của Quân đội Việt Nam cộng hòa.

Xét về hỏa lực không quân, pháo binh và hải quân thì phía Quân đội Hoa Kỳ và Quân đội Việt Nam cộng hòa có ưu thế vượt trội so Quân đội nhân dân Việt Nam, nhất là giai đoạn sau của chiến dịch khi mùa mưa đến khâu tiếp tế vũ khí gặp rất nhiều khó khăn.

3. Tóm tắt diễn biến chính và chiến thuật
- Diễn biến chính

Năm 1972, Quân đội Nhân dân Việt Nam tổ chức tổng tấn công trên 3 chiến trường chính: Quảng Trị, Bắc Tây Nguyên, và Đông Nam Bộ (Bình Long, Bình Phước), trong đó hướng chủ yếu là Quảng Trị.


Đúng 11 giờ 30.03.1972, Quân đội nhân dân Việt Nam đồng loạt tiến công các căn cứ, hệ thống phòng ngự của quân đội Việt Nam cộng hòa, vô hiệu hóa 12 trận địa pháo của chúng. Trong vòng chiến đấu 1 tháng, lực lượng Quân đội nhân dân Việt Nam, bộ đội và du kích địa phương của tỉnh Quảng Trị làm chủ nhiều huyện lỵ. Để nhanh chóng kiểm soát Quảng Trị, ngày 01.5.1972, quân chủ lực thuộc Trung đoàn 9, Sư đoàn 304 và Sư đoàn 320 hiệp đồng tiến công từ La Vang vào trung tâm thị xã, cắm lá cờ của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam lên nóc dinh Tỉnh trưởng Quảng Trị.

Trong đợt tấn công đầu tiên này, cả tập đoàn phòng ngự của Quân lực Việt Nam cộng hòa với trên 3 vạn quân, 178 máy bay, 11 tàu chiến, 320 xe tăng, 237 khẩu đại bác đã bị phá vỡ trước những cuộc tiến công như vũ bão của Quân đội nhân dân Việt Nam.

Bị mất tỉnh Quảng Trị, Hoa Kỳ và chính quyền Việt Nam cộng hòa huy động nhiều sư đoàn và phương tiện, vũ khí hiện đại hòng chiếm lại tỉnh Quảng Trị mà trước hết là Thành Cổ bằng mọi giá.

Từ giữa tháng 6, Quân lực Việt Nam Cộng hòa dồn lực lượng phản công với sự tham gia có tính chiến lược của không quân, hải quân Hoa Kỳ và bắt đầu lấy lại ưu thế trên chiến trường. Đến đầu tháng 7 họ đã tiến đến thị xã Quảng Trị.

Cuộc chiến 81 ngày đêm ở thị xã và thành cổ Quảng Trị (thành Đinh Công Tráng) đã diễn ra vô cùng căng thẳng, ác liệt. Cả hai bên đều bị thiệt hại nặng nề về quân số. Đêm 15.9.1972 Quân đội nhân dân Việt Nam bắt đầu rút có tổ chức ra khỏi thành cổ và thị xã Quảng Trị.

Sáng ngày 16.9.1972 một nhóm binh sĩ thuộc tiểu đoàn 6 Thủy quân lục chiến đã cắm cờ Việt Nam cộng hòa trên cổng thành phía tây của thành cổ Quảng Trị.

- Về chiến thuật:

Giai đoạn đầu lực lượng bộ binh của Quân đội nhân Việt Nam với sự yểm trợ tối đa của pháo binh và xe tăng tấn công như vũ bão vào lực lượng của Quân lực Việt Nam cộng hòa. Quân lực Việt Nam cộng hòa bị bất ngờ, không thể chống đỡ nổi đã phải rút lui. Sư đoàn 3 bị loại khỏi vòng chiến. Quân đội Việt Nam đã thành công trong cách đánh hợp đồng binh chủng: Lục quân- Pháo binh- Tăng, thiết giáp.

Giai đoạn sau Quân lực Việt Nam cộng hòa với sự yểm trợ vô cùng có hiệu quả của không quân, hải quân và pháo binh, trong đó có máy bay chiến lược B 52 và lực lượng pháo binh của Hạm đội 7 của Hoa Kỳ đã bền bỉ, quyết liệt phản công Quân đội nhân dân Việt Nam.

Ngay trong giai đoạn bị đối phương phản công quyết liệt, Quân đội nhân dân Việt Nam vẫn lúng túng giữa phòng ngự và tấn công, không chuyển sang tích cực phòng ngự. Lúc đó, những người lính chúng tôi đang vô cùng chật vật phòng ngự mà vẫn được quán triệt là phải chuẩn bị tấn công Thừa Thiên- Huế. Không có hệ thống phòng ngự vững chắc lực lượng Quân đội nhân dân Việt Nam bị thương vong rất lớn khi đối phương phản công mạnh mẽ. Sau này Quân đội nhân dân Việt Nam mới chuyển sang phòng ngự chủ động theo chiều sâu.

Sau khi rút khỏi thị xã Quảng Trị Quân đội nhân dân Việt Nam đã lập phòng tuyến vững chắc chống lại Quân lực Việt Nam cộng hòa. Quân lực Việt Nam cộng hòa tổ chức chiến dịch Lam Sơn 72A và các cuộc hành quân “Sóng thần” để tái chiếm bờ bắc sông Thạch Hãn, đánh chiếm Cửa Việt nhưng đã bị Quân đội nhân dân Việt Nam đánh bại. Hai bên quay về giữ thế giằng co cho đến khi hiệp định Paris được ký kết vào tháng 1 năm 1973.

4. Những tổn thất của hai bên

Theo số liệu đã công bố tại mít tinh kỷ niệm 40 năm ngày Giải phóng Quảng Trị (01.05.1972- 01.05.2012) trên toàn bộ chiến trường Quảng Trị trong năm 1972 Quân đội nhân Việt Nam đã tiêu diệt 26.000 quân của quân đội của chính quyền Sài Gòn. Quân đội nhân dân Việt Nam bị thiệt hại 36.000 quân.


Sau 81 ngày đêm chiếm giữ Thành Cổ và thị xã Quảng Trị, Quân đội nhân dân Việt Nam đã bị tổn thất nặng. Riêng Trung đoàn Triệu Hải (Trung đoàn 27 Mặt trận B5) với hơn 1.500 quân cố thủ trong Cổ Thành đã bị thương vong gần như toàn bộ tại trận địa, chỉ còn chưa đến 1 tiểu đội thoát ra ngoài vào đêm 15.9.1972. Chi tiết về trung đoàn này cũng đã được phóng viên Báo Tuổi trẻ ghi lại theo lời kể của một cựu chiến binh (một trong chưa đến chục người sống sót của trung đoàn này) qua bài ký đăng trong số báo ra ngày 26 tháng 7/1998, có đoạn: “Tết năm 1968, ngay sau khi trung đoàn được thành lập ở miền Bắc, một tháng sau trung đoàn này có mặt tại Quảng Trị. Từ đấy cho đến năm 1972, Quảng Trị đã trở thành chiến trường của trung đoàn 27, và ở đây, họ mang một cái tên mới: Trung đoàn Triệu Hải (tên của hai huyện đồng bằng Quảng Trị ghép lại)… Phải đến bây giờ, chúng ta mới được nghe cả một trung đoàn vào giữ Thành Cổ, lúc rút ra còn chưa đến một tiểu đội”.

Ngoài Trung đoàn Triệu Hải (Mặt trận B5) gần như bị xóa sổ, Trung đoàn 48 B thuộc Sư đoàn 320B – đơn vị chiếm giữ trung tâm thị xã, cũng đã bị thiệt hại hơn 80% quân số.


Về phía Quân lực Việt Nam cộng hòa, tuy tái chiếm được thành cổ nhưng cũng phải trả giá rất đắt. Kế hoạch chiếm thị xã trước ngày 13/7 để mặc cả tại Hội nghị Paris không thực hiện được mà còn phải mất gấp 5 lần thời gian định trước. Để chiếm lại thành cổ, chỉ riêng Sư đoàn Thủy quân Lục chiến có 3.658 binh sĩ tử trận, chiếm 25% tổng quân số (tổng thương vong là hơn 5.000 chiếm 38% quân số). Các đơn vị thuộc Sư đoàn Dù và các đơn vị khác cũng chịu thiệt hại nặng tương đương.

Thiệt hại rất lớn của các đơn vị tinh nhuệ này khiến Quân lực Việt Nam cộng hòa không đủ sức tấn công tiếp ra phía bắc. Các chiến dịch Lam Sơn 72A và các cuộc hành quân “Sóng thần” để tái chiếm bờ bắc sông Thạch Hãn và đánh chiếm Cửa Việt đã bị thất bại.

5. Tại sao Quảng Trị ?

Vùng đất Quảng Trị là nơi đối đầu, là nơi mà cả hai bên Việt Nam dân chủ cộng hòa và Việt Nam cộng hòa đều muốn thể hiện sức mạnh của mình. Nói rộng ra, Quảng Trị cũng là nơi hai phe XHCN và phe TBCN đối đầu nhau về sức mạnh quân sự. Tất cả các vũ khí hiện đại được Hoa Kỳ sử dụng ở đây từ những năm 65-68, nhất là tại Mặt trận Khe Sanh- Đường Chín.

Năm 1972 Quân đội nhân dân Việt Nam đã phải tung vào chiến trường lực lượng dự trữ chiến lược của mình là Sư đoàn 308, Sư đoàn 312. Chính quyền Sài Gòn cũng đã phải huy động hai sư đoàn thuộc lực lượng dữ trữ chiến lược và thiện chiến nhất là Sư dù và Sư Thủy quân lục chiến trực tiếp chiến đấu ở Mặt trận Quảng Trị.

Các nhà lãnh đạo Đảng và Nhà nước Việt Nam DCCH muốn khẳng định mạnh mẽ với thế giới rằng: Chúng tôi giải phóng được một tỉnh địa đầu của miền Nam Việt Nam và hoàn toàn có thể giữ được tỉnh này. Giữ Quảng Trị trong điều kiện Hoa Kỳ chi viện tối đa về hỏa lực không quân, hải quân là để Việt Nam dân chủ cộng hòa có thế mạnh trong đàm phán với Hoa Kỳ và Việt Nam cộng hòa ở Paris.

Về phía Việt Nam cộng hòa, họ không thể cam chịu mất tỉnh địa đầu của mình vì chiếm được Quảng Trị, Quân đội Nhân dân Việt Nam có bàn đạp để tiến đánh các tỉnh khác. Từ đây có thể gây phản ứng dây truyền mất tiếp những tỉnh khác.

Chính quyền Việt Nam cộng hòa cho rằng, chiếm lại được Quảng Trị sẽ gây tiếng vang lớn trên thế giới, sẽ gây sức ép được với chính quyền Hà Nội và cả chính quyền Hoa Kỳ (đang muốn bỏ rơi miền Nam Việt Nam) trên bàn đàm phán ở Paris. Mặt khác, chính quyền Sài Gòn cũng muốn chứng minh: Mặc dù quân đội Mỹ không còn trực tiếp tham chiến bằng bộ binh nữa thì Quân lực Việt Nam cộng hòa vẫn hoàn toàn có thể đứng vững, chiến đấu và có thể chiến thắng Quân đội nhân dân Việt Nam.

Thị xã Quảng Trị, Thành cổ Quảng Trị trở thành địa điểm tượng trưng cho tỉnh Quảng Trị. Chiếm được Thành Cổ được coi như là chiếm được tỉnh Quảng Trị. Thành Cổ Quảng Trị được cả thế giới biết đến.

81 ngày đêm máu lửa đã diễn ra…Trong cuộc chiến tranh ở Đông Dương chưa có nơi nào chiến sự diễn ra ác liệt và bi tráng như tại Thành Cổ Quảng Trị năm 1972!

Ích Duệ. Cựu chiến binh chiến trường Quảng Trị@ bài rút bên Hiệu Minh blog