Nhân kỷ niệm 40 năm về những sự
kiện bi tráng tại chiến trường Quảng Trị, tôi (Ích Duệ) xin tổng hợp rất ngắn
gọn từ các nguồn tài liệu khác nhau về bối cảnh, về lực lượng tham gia, về
những tổn thất to lớn, không kể xiết về con người trong những tháng năm máu
lửa, ác liệt đó. Tôi cũng có đưa ra một vài ý kiến cá nhân.
Chiến tranh thật khốc liệt. Biết
bao máu xương người Việt của cả hai phía đã đổ trên mảnh đất này. Viết lại
những dòng này để chúng ta biết thêm về cuộc chiến mà cả hai cùng tuyên bố
chiến thắng. Và nếu có thể, trong tương lai, đừng có thêm những “81 ngày đêm”
kia nữa.
1. Bối cảnh
Kể từ sau chiến dịch Mậu Thân năm
1968 đến năm 1972 bốn năm trôi qua. Lực lượng của Quân đội nhân dân Việt Nam đã hồi phục
và ngày càng lớn mạnh. Sau Mậu Thân, Hoa Kỳ buộc phải ngồi vào bàn đàm phán
Việt Nam Dân chủ cộng hòa ở Paris .
Năm 1972 chính quyền Nixon mở đột
phá khẩu trong quan hệ với Trung Quốc và Liên Xô. Các nước lớn muốn dùng Việt Nam như một con
bài trên bàn thương lượng, đàm phán vì lợi ích riêng của mình.
Năm 1972 là năm bầu cử Tổng thống
Mỹ. Không có ứng cử viên nào muốn gây bất bình trong dư luận công chúng Mỹ
Bộ Chính trị, Trung ương Đảng Lao
động Việt Nam cho rằng, đây chính là thời điểm rất thích hợp để mở một trận
đánh chính quy lớn, hợp đồng binh chủng vào lực lượng quân đội của chính quyền
Việt Nam cộng hòa tại Mặt trận Quảng Trị, giáng cho chúng những đòn chí mạng.
Về điều kiện thiên nhiên, giai
đoạn ác liệt nhất của chiến trường Quảng Trị năm 1972 diễn ra trong thời tiết
mưa to nhiều ngày. Nước sông dâng cao, công sự sũng nước. Việc cung cấp đạn
được và tiếp tế lương thực, thực phẩm rất khó khăn. Lực lượng phòng ngự trên
các chốt, lính tráng phải tát nước suốt ngày suốt đêm, hầm hào bị sụt lở không
còn tác dụng che chắn đạn bom.
2. Lực lượng tham gia của hai bên
2.1. Quân đội Nhân dân Việt Nam :
- Các sư đoàn bộ binh: 304, 308,
320B, 324 và 325, sau được tăng cường thêm Sư đoàn 312 từ Lào về.
- 2 trung đoàn tăng, thiết giáp:
202 và 203 với hơn 100 xe tăng T- 34, T- 54, PT 76.
- Một số tiểu đoàn đặc công.
- Bốn trung đoàn pháo binh cơ
giới với 408 khẩu gồm: 63 khẩu pháo chiến dịch 130mm, 93 khẩu pháo cấp sư đoàn
(122 ly và 105 ly) và 247 khẩu pháo cùng bộ binh (sơ pháo 76mm hoặc 85mm).
- Hai sư đoàn phòng không: Sư
đoàn 367 và 376 với 3 trung đoàn pháo phòng không 282, 284, 224 và hai trung
đoàn tên lửa 238, 237 với tên lửa đất đối không SA-2.
- Một số trung đoàn công binh.
- Các lực lượng tại chỗ của Mặt
trận B5, B4 và Đoàn 559.
2.2 Quân lực Việt Nam
Cộng hòa:
- 2 sư đoàn bộ binh 1 và 3.
- Sư đoàn dù và Sư đoàn thủy quân
lục chiến.
- 4 trung đoàn và 2 chi đoàn
thiết giáp: thiết đoàn 7, 18 kị binh, trung đoàn 51 bộ binh.
- 17 tiểu đoàn pháo binh gồm 258
khẩu đại bác cỡ 105mm trở lên (chưa kể các loại pháo bắn thẳng), một số tiểu
đoàn công binh.
2.3. Quân đội Hoa Kỳ:
* Không quân:
- 2 không đoàn máy bay chiến lược
B-52 (D và G)
- 1 liên đội máy bay F-111
- 5 liên đoàn không quân chiến
thuật F-4 và A-7
- 2 liên đội trinh sát và tác
chiến điện tử SR-71, EB-66, EC-121, F-105G
- 2 liên đoàn tiếp dầu KC-135
* Hải quân:
- 6 Tàu sân bay, 135 tàu tuần
dương, tàu khu trục và tàu nổi khác.
Lính tráng chúng tôi gọi pháo từ
Hạm đội 7 là pháo bầy, pháo giàn, pháo chụp. Mỗi lần máy bay chiến lược B52
xuất kích từ Thái Lan, chúng tôi đều được báo trước nhưng biết chạy đi đâu.
Thống kê cho thấy thị xã Quảng
Trị bị lực lượng không quân và hải quân Hoa Kỳ tàn phá với 328.000 tấn bom đạn,
9552.000 viên đạn pháo 105mm, 55.000 viên đạn pháo 155 mm, 8164 viên đạn pháo
175mm, hơn 615.000 viên đạn hải pháo, 2240 lần oanh tạc của không quân (tổng số
bom đạn trong 81 ngày đêm bằng sức công phá của 7 quả bom nguyên tử Mỹ ném
xuống Nhật Bản). Có ngày số bom Mỹ ném ở Quảng Trị vượt xa số bom Mỹ ném trên
toàn miền Nam
trong hai năm 1968-1969. Dữ dội nhất là ngày 25/7, thị xã phải chịu 5000 quả
đạn pháo. Thị xã Quảng Trị với 3 km2 và vùng ven có ngày phải chịu hơn hai vạn
quả đạn đại bác cỡ lớn.
Những người chốt giữ Thành Cổ đã
chứng kiến hàng chục loại bom pháo khác nhau như: Bom đào, bom phạt, bom bi,
bom na ban, pháo khoan, pháo chụp, pháo càng. Đặc biệt lần đầu tiên trên chiến
trường Quảng Trị, Mỹ đã dùng loại bom dù – một loại bom mà khi thả xuống lưng
chừng, một quả bom mẹ nổ thành hai quả bom con, những quả bom con ấy cũng được
dù mang cứ lừ lừ rơi xuống, trông thấy hẳn hoi mà không có cách gì phá nổi.
Xét về trang bị thiết bị kỹ
thuật, vũ khí, Quân lực Việt Nam cộng hòa có không quân riêng với hơn 1.200 máy
bay; Quân đội nhân dân Việt Nam chỉ có gần 100 máy bay tiêm kích chỉ đủ phòng
thủ không phận miền Bắc. Quân lực Việt Nam cộng hòa có hơn 400 máy bay trực
thăng chở quân và yểm hộ mặt đất; Quân đội nhân dân Việt Nam không có. Quân lực
Việt Nam cộng hòa có không quân chiến thuật (TAC),không quân chiến lược (SAC)
(chủ yếu là B-52) và các pháo hạm của Hạm đội 7 yểm hộ; Quân đội nhân dân Việt
Nam không có. Bộ binh, quân dù, thủy quân lục chiến của Quân lực Việt Nam cộng
hòa tiếp cận chiến trường và tham chiến bằng máy bay trực thăng, tàu đổ bộ LCU,
xe thiết giáp M-113 các loại quân xa khác; bộ binh Quân đội nhân dân Việt Nam
chủ yếu tiếp cận chiến trường bằng đôi chân. Quân đội nhân dân Việt Nam có
SAM-2, SAM-7 và pháo cao xạ nhưng phải vừa yểm hộ chiến trường, vừa phòng thủ
toàn bộ không phận miền Bắc với cơ số đạn hạn chế do Trung Quốc cố tình làm
chậm việc chuyển hàng quân sự từ Liên Xô đến Việt Nam và Không lực Hoa Kỳ phong
tỏa các cảng của Bắc Việt Nam từ ngày 6 tháng 4 năm 1972. Trong năm 1971, Quân
đội nhân dân Việt Nam
chỉ nhận được 58 xe tăng T-54, 18 xe tăng T-59 (do Trung Quốc chế tạo), 27 xe
tăng lội nước hạng nhẹ PT-76 (do Ba Lan chế tạo). Dù sao, Quân đội nhân dân
Việt Nam
cũng đã có thể huy động một lực lượng tăng thiết giáp tham gia chiến dịch lớn
nhất từ trước đến nay.
Như vậy, xét về số lượng đơn vị
tham chiến, lực lượng Quân đội nhân dân Việt Nam nhiều hơn. Tuy nhiên, xét về số
lượng quân trực tiếp chiến đấu, Quân đội nhân dân Việt Nam không nhỉnh hơn mà thậm chí còn ít hơn vì
hàng ngày bị thương vong rất lớn bởi hỏa lực pháo, bom của Không quân và Hải
quân Hoa Kỳ và của Quân đội Việt Nam cộng hòa.
Xét về hỏa lực không quân, pháo
binh và hải quân thì phía Quân đội Hoa Kỳ và Quân đội Việt Nam cộng hòa có ưu thế vượt trội so Quân đội
nhân dân Việt Nam ,
nhất là giai đoạn sau của chiến dịch khi mùa mưa đến khâu tiếp tế vũ khí gặp
rất nhiều khó khăn.
3. Tóm tắt diễn biến chính và chiến thuật
- Diễn biến chính
Năm 1972, Quân đội Nhân dân Việt
Nam tổ chức tổng tấn công trên 3 chiến trường chính: Quảng Trị, Bắc Tây Nguyên,
và Đông Nam Bộ (Bình Long, Bình Phước), trong đó hướng chủ yếu là Quảng Trị.
Đúng 11 giờ 30.03.1972, Quân đội
nhân dân Việt Nam đồng loạt tiến công các căn cứ, hệ thống phòng ngự của quân
đội Việt Nam cộng hòa, vô hiệu hóa 12 trận địa pháo của chúng. Trong vòng chiến
đấu 1 tháng, lực lượng Quân đội nhân dân Việt Nam, bộ đội và du kích địa phương
của tỉnh Quảng Trị làm chủ nhiều huyện lỵ. Để nhanh chóng kiểm soát Quảng Trị,
ngày 01.5.1972, quân chủ lực thuộc Trung đoàn 9, Sư đoàn 304 và Sư đoàn 320 hiệp
đồng tiến công từ La Vang vào trung tâm thị xã, cắm lá cờ của Mặt trận Dân tộc
Giải phóng miền Nam lên nóc dinh Tỉnh trưởng Quảng Trị.
Trong đợt tấn công đầu tiên này,
cả tập đoàn phòng ngự của Quân lực Việt Nam cộng hòa với trên 3 vạn quân, 178
máy bay, 11 tàu chiến, 320 xe tăng, 237 khẩu đại bác đã bị phá vỡ trước những
cuộc tiến công như vũ bão của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Bị mất tỉnh Quảng Trị, Hoa Kỳ và
chính quyền Việt Nam cộng hòa huy động nhiều sư đoàn và phương tiện, vũ khí
hiện đại hòng chiếm lại tỉnh Quảng Trị mà trước hết là Thành Cổ bằng mọi giá.
Từ giữa tháng 6, Quân lực Việt
Nam Cộng hòa dồn lực lượng phản công với sự tham gia có tính chiến lược của
không quân, hải quân Hoa Kỳ và bắt đầu lấy lại ưu thế trên chiến trường. Đến
đầu tháng 7 họ đã tiến đến thị xã Quảng Trị.
Cuộc chiến 81 ngày đêm ở thị xã
và thành cổ Quảng Trị (thành Đinh Công Tráng) đã diễn ra vô cùng căng thẳng, ác
liệt. Cả hai bên đều bị thiệt hại nặng nề về quân số. Đêm 15.9.1972 Quân đội
nhân dân Việt Nam
bắt đầu rút có tổ chức ra khỏi thành cổ và thị xã Quảng Trị.
Sáng ngày 16.9.1972 một nhóm binh
sĩ thuộc tiểu đoàn 6 Thủy quân lục chiến đã cắm cờ Việt Nam cộng hòa trên cổng thành phía
tây của thành cổ Quảng Trị.
- Về chiến thuật:
Giai đoạn đầu lực lượng bộ binh
của Quân đội nhân Việt Nam
với sự yểm trợ tối đa của pháo binh và xe tăng tấn công như vũ bão vào lực
lượng của Quân lực Việt Nam
cộng hòa. Quân lực Việt Nam
cộng hòa bị bất ngờ, không thể chống đỡ nổi đã phải rút lui. Sư đoàn 3 bị loại
khỏi vòng chiến. Quân đội Việt Nam
đã thành công trong cách đánh hợp đồng binh chủng: Lục quân- Pháo binh- Tăng,
thiết giáp.
Giai đoạn sau Quân lực Việt Nam
cộng hòa với sự yểm trợ vô cùng có hiệu quả của không quân, hải quân và pháo
binh, trong đó có máy bay chiến lược B 52 và lực lượng pháo binh của Hạm đội 7
của Hoa Kỳ đã bền bỉ, quyết liệt phản công Quân đội nhân dân Việt Nam.
Ngay trong giai đoạn bị đối
phương phản công quyết liệt, Quân đội nhân dân Việt Nam vẫn lúng túng giữa phòng ngự và
tấn công, không chuyển sang tích cực phòng ngự. Lúc đó, những người lính chúng
tôi đang vô cùng chật vật phòng ngự mà vẫn được quán triệt là phải chuẩn bị tấn
công Thừa Thiên- Huế. Không có hệ thống phòng ngự vững chắc lực lượng Quân đội
nhân dân Việt Nam
bị thương vong rất lớn khi đối phương phản công mạnh mẽ. Sau này Quân đội nhân
dân Việt Nam
mới chuyển sang phòng ngự chủ động theo chiều sâu.
Sau khi rút khỏi thị xã Quảng Trị
Quân đội nhân dân Việt Nam
đã lập phòng tuyến vững chắc chống lại Quân lực Việt Nam cộng hòa. Quân lực Việt Nam
cộng hòa tổ chức chiến dịch Lam Sơn 72A và các cuộc hành quân “Sóng thần” để
tái chiếm bờ bắc sông Thạch Hãn, đánh chiếm Cửa Việt nhưng đã bị Quân đội nhân
dân Việt Nam đánh bại. Hai bên quay về giữ thế giằng co cho đến khi hiệp định Paris được ký kết vào
tháng 1 năm 1973.
4. Những tổn thất của hai bên
Theo số liệu đã công bố tại mít
tinh kỷ niệm 40 năm ngày Giải phóng Quảng Trị (01.05.1972- 01.05.2012) trên
toàn bộ chiến trường Quảng Trị trong năm 1972 Quân đội nhân Việt Nam đã tiêu
diệt 26.000 quân của quân đội của chính quyền Sài Gòn. Quân đội nhân dân Việt Nam bị thiệt
hại 36.000 quân.
Sau 81 ngày đêm chiếm giữ Thành
Cổ và thị xã Quảng Trị, Quân đội nhân dân Việt Nam đã bị tổn thất nặng. Riêng
Trung đoàn Triệu Hải (Trung đoàn 27 Mặt trận B5) với hơn 1.500 quân cố thủ
trong Cổ Thành đã bị thương vong gần như toàn bộ tại trận địa, chỉ còn chưa đến
1 tiểu đội thoát ra ngoài vào đêm 15.9.1972. Chi tiết về trung đoàn này cũng đã
được phóng viên Báo Tuổi trẻ ghi lại theo lời kể của một cựu chiến binh (một
trong chưa đến chục người sống sót của trung đoàn này) qua bài ký đăng trong số
báo ra ngày 26 tháng 7/1998, có đoạn: “Tết năm 1968, ngay sau khi trung đoàn
được thành lập ở miền Bắc, một tháng sau trung đoàn này có mặt tại Quảng Trị.
Từ đấy cho đến năm 1972, Quảng Trị đã trở thành chiến trường của trung đoàn 27,
và ở đây, họ mang một cái tên mới: Trung đoàn Triệu Hải (tên của hai huyện đồng
bằng Quảng Trị ghép lại)… Phải đến bây giờ, chúng ta mới được nghe cả một trung
đoàn vào giữ Thành Cổ, lúc rút ra còn chưa đến một tiểu đội”.
Ngoài Trung đoàn Triệu Hải (Mặt
trận B5) gần như bị xóa sổ, Trung đoàn 48 B thuộc Sư đoàn 320B – đơn vị chiếm
giữ trung tâm thị xã, cũng đã bị thiệt hại hơn 80% quân số.
Về phía Quân lực Việt Nam
cộng hòa, tuy tái chiếm được thành cổ nhưng cũng phải trả giá rất đắt. Kế hoạch
chiếm thị xã trước ngày 13/7 để mặc cả tại Hội nghị Paris không thực hiện được mà còn phải mất
gấp 5 lần thời gian định trước. Để chiếm lại thành cổ, chỉ riêng Sư đoàn Thủy
quân Lục chiến có 3.658 binh sĩ tử trận, chiếm 25% tổng quân số (tổng thương
vong là hơn 5.000 chiếm 38% quân số). Các đơn vị thuộc Sư đoàn Dù và các đơn vị
khác cũng chịu thiệt hại nặng tương đương.
Thiệt hại rất lớn của các đơn vị
tinh nhuệ này khiến Quân lực Việt Nam cộng hòa không đủ sức tấn công
tiếp ra phía bắc. Các chiến dịch Lam Sơn 72A và các cuộc hành quân “Sóng thần”
để tái chiếm bờ bắc sông Thạch Hãn và đánh chiếm Cửa Việt đã bị thất bại.
5. Tại sao Quảng Trị ?
Vùng đất Quảng Trị là nơi đối
đầu, là nơi mà cả hai bên Việt Nam
dân chủ cộng hòa và Việt Nam
cộng hòa đều muốn thể hiện sức mạnh của mình. Nói rộng ra, Quảng Trị cũng là
nơi hai phe XHCN và phe TBCN đối đầu nhau về sức mạnh quân sự. Tất cả các vũ
khí hiện đại được Hoa Kỳ sử dụng ở đây từ những năm 65-68, nhất là tại Mặt trận
Khe Sanh- Đường Chín.
Năm 1972 Quân đội nhân dân Việt Nam đã
phải tung vào chiến trường lực lượng dự trữ chiến lược của mình là Sư đoàn 308,
Sư đoàn 312. Chính quyền Sài Gòn cũng đã phải huy động hai sư đoàn thuộc lực
lượng dữ trữ chiến lược và thiện chiến nhất là Sư dù và Sư Thủy quân lục chiến
trực tiếp chiến đấu ở Mặt trận Quảng Trị.
Các nhà lãnh đạo Đảng và Nhà nước
Việt Nam DCCH muốn khẳng định mạnh mẽ với thế giới rằng: Chúng tôi giải phóng
được một tỉnh địa đầu của miền Nam Việt Nam và hoàn toàn có thể giữ được
tỉnh này. Giữ Quảng Trị trong điều kiện Hoa Kỳ chi viện tối đa về hỏa lực không
quân, hải quân là để Việt Nam dân chủ cộng hòa có thế mạnh trong đàm phán với
Hoa Kỳ và Việt Nam cộng hòa ở Paris.
Về phía Việt Nam cộng hòa, họ
không thể cam chịu mất tỉnh địa đầu của mình vì chiếm được Quảng Trị, Quân đội
Nhân dân Việt Nam có bàn đạp để tiến đánh các tỉnh khác. Từ đây có thể gây phản
ứng dây truyền mất tiếp những tỉnh khác.
Chính quyền Việt Nam cộng hòa cho
rằng, chiếm lại được Quảng Trị sẽ gây tiếng vang lớn trên thế giới, sẽ gây sức
ép được với chính quyền Hà Nội và cả chính quyền Hoa Kỳ (đang muốn bỏ rơi miền
Nam Việt Nam) trên bàn đàm phán ở Paris. Mặt khác, chính quyền Sài Gòn cũng
muốn chứng minh: Mặc dù quân đội Mỹ không còn trực tiếp tham chiến bằng bộ binh
nữa thì Quân lực Việt Nam cộng hòa vẫn hoàn toàn có thể đứng vững, chiến đấu và
có thể chiến thắng Quân đội nhân dân Việt Nam.
Thị xã Quảng Trị, Thành cổ Quảng
Trị trở thành địa điểm tượng trưng cho tỉnh Quảng Trị. Chiếm được Thành Cổ được
coi như là chiếm được tỉnh Quảng Trị. Thành Cổ Quảng Trị được cả thế giới biết
đến.
81 ngày đêm máu lửa đã diễn
ra…Trong cuộc chiến tranh ở Đông Dương chưa có nơi nào chiến sự diễn ra ác liệt
và bi tráng như tại Thành Cổ Quảng Trị năm 1972!
Ích Duệ. Cựu chiến binh chiến trường Quảng Trị@ bài rút bên
Hiệu Minh blog
Ai đó nói Quảng trị có đặc sản là bom mìn và hài cốt. Bom mìn dân nghèo đã dọn gần hết cho lò phế liệu đổi ít xu teng, đổi luôn cả mạng sống, chân giò và tim phổi. Còn hài cốt? Nhiều lắm. Đại tá bảo còn đen lòng sông, trắng ụ cát. Mùa hè đỏ lửa cách đây gần 40 năm, 81 ngày đêm mỗi ngày toi nguyên một đại đội (hơn 100 mạng, chưa kể phía bên kia ). Rùng rợn!
Trả lờiXóaTrích: Nhân 27/7 về lại Thành Cổ Quảng Trị của Fọt-fẹt.