31 thg 7, 2012

Man rợ hơn giã thú

    Lại 1 Lê Văn Luyện (LVL) nữa xuất hiện, mà có lẽ còn man rợ hơn: chém nhiều nhát cho đến chết cháu bé 4 tuổi để hiếp chị cháu mới 8 tuổi. Con người mà sao man rợ hơn bầy dã thú?!
    Xen kẽ giữa 2 LVL là cơ man nào vụ việc đã xảy ra, khiến những người còn chút lương tri kg thể kg xót xa, tức giận.
    Vì đâu đến nông nỗi này?
    Thôi thì thầy bói mù cứ thử xem con voi tệ nạn xã hội (TNXH).
    - Dân trí thấp.
    Ờ mà khoan nói dân trí, xem quan trí cái đã. Còn nhớ trong kỳ họp QH vừa qua, có vị ĐBQH đăng đàn fỏng vấn bộ trưởng bộ CA (đại ý): Tại sao TNXH kg những kg giảm mà còn có xu hướng gia tăng? Bộ CA có biện fáp gì để giảm bớt TNXH?
    Ôi, đáng thương và đáng giận cho cái gọi là quan trí của vị ĐBQH này! Bộ CA đâu làm đc những việc đó. Nói cách khác, đó kg fải chức năng của bộ CA. Mà câu hỏi này fải đặt trên bàn làm việc của ông Đảng, ông nhà nước. ĐBQH mà còn lầm lẫn vậy trách gì dân đen!
   Quay lại dân trí thấp. Cái vòi của con voi TNXH là đây. Nhưng tại sao lại thấp, thấp hơn những thế kỷ trước, xét về mức độ tội ác? Vì nông dân mất ruộng, kg có việc làm, kg đi học đc vì chương trình fổ thông mà nặng gần như đại học ở các nc fát triển, vì học fí cao… Thế thì ‘nhàn cư vi bất thiện’ là lẽ đương nhiên, là nghiện hút, là chém giết, hãm hiếp!
    - Gương xấu quá nhiều mà kg bị trừng fạt.
    Nhiều quan to quá xấu, quá tham nhũng, dân ai cũng biết mà vẫn hàng ngày trơ trẽn rao giảng thuyết giáo nọ kia, lại còn luôn ‘học tập gương chí công vô tư của Hồ Chủ Tịch’. Ôi, thật chẳng còn gì để nói!
   CA đánh chết người ngay tại đồn chỉ xử cho qua, đánh người kg đội mũ bảo hiểm mà mặt vẫn lạnh tanh. Tầm nhận thức chỉ như tay Ca ở Hải Phòng mà cũng quân hàm đại tá, chức trưởng! Đánh dân, fá nhà dân, đánh nhà báo như Tiên Lãng, Văn Giang… cũng chỉ như ‘cứt trâu hóa bùn’!
   Quan chức có quyền hành mà còn ác, còn trơ như thế thì dân đen mạt hạng, túng quẫn, liều mạng đến độ Chí Phèo cũng là lẽ thường. Âu cũng là "Nhà dột từ nóc" đấy thôi !
   Dừng lại! mong các ông no đủ quá thừa rồi, hãy dừng tham lam lại, nhìn xuống trăm dân, nhìn toàn đất nước, nhìn ra Biển Đông mà chữa thẹn với Tiên Tổ.
   Dừng lại! Hãy dừng 'tham quyền cố vị' lại để tu sửa cái nhà, để giảm bớt TNXH đang nhức nhối !

Ai “tưng bừng” trong ngày 27-7?


Hữu Long

Mỗi lần đến ngày Thương binh Liệt sĩ 27-7, không chỉ là dịp tôn vinh, ghi công những người đã cống hiến, hy sinh một phần thân thể, một phần đời, thậm chí cả cuộc đời mình cho đất nước mà còn là dịp mà nhiều nỗi đau của dân tộc bị khơi dậy, một cách vô tình hay hữu ý.

 Không biết từ bao giờ, những người làm truyền thông cho ngày 27-7 lại lồng được chữ “tưng bừng” vào những khẩu hiệu, những tít báo. Lý do gì khiến cho anh “tưng bừng” kỷ niệm trong cái ngày mà đáng lẽ việc cần làm là xoa dịu những nỗi đau?

 Và điều đáng kể là cách thức mà các sự kiện diễn ra làm cho người ta thấy là nó “tưng bừng” thật. Rất nhiều khẩu hiệu đỏ rực được giăng lên, rất nhiều hoa được chuyển tới các hội trường, rất nhiều đêm ca múa nhạc và rất nhiều chương trình truyền hình trực tiếp với những lời phát biểu thăng hoa, bay bổng. Mọi lời hoa mỹ về chiến công anh dũng trong quá khứ mà những người dẫn chương trình cất lên, đều vô nghĩa trước cuộc sống lam lũ, đang rất khó khăn của rất nhiều bà mẹ Việt Nam anh hùng, rất nhiều thương binh, bệnh binh, cựu thanh niên xung phong phục vụ chiến trường… Nếu như các cơ quan, đoàn thể bỏ ra hàng chục đến hàng trăm triệu đồng để tổ chức một chương trình kỷ niệm ngày Thương binh Liệt sĩ thì với chế độ hiện nay, rất nhiều thương binh và bà mẹ Việt Nam anh hùng cũng chỉ được nhận từ vài trăm nghìn đến hơn 1 triệu đồng mỗi tháng. So ra, số tiền này còn không mua nổi số hoa được dùng để trang trí cho các đêm ca múa nhạc.

 Đó là chưa kể báo chí đã ghi nhận rất nhiều hiện tượng các bà mẹ già gần đất xa trời chạy vạy đi làm thủ tục công nhận liệt sĩ cho con hàng chục năm nay mà chưa được; nhiều thương, bệnh binh không được giải quyết chế độ hoặc giải quyết không kịp thời do những cán bộ nhũng nhiễu, cửa quyền. Đặt mình vào vị trí những người từng vào sinh ra tử để chiến đấu cho đất nước và trở về nhà để đối mặt với những cán bộ như vậy, ai “tưng bừng” nổi?

Theo PL TpHCM

30 thg 7, 2012

Báo chí thực & ảo


NGHỊCH LÝ VIỆT NAM - BÁO CHÍ THỰC & ẢO ! (7)

Trương Duy Nhất -Cựu nhà báo

“Cái sợ cái hèn của người cầm bút, nhất là làm báo, nguy hiểm lắm. Rất vô thức, nhưng anh ta sẽ làm “lây nhiễm” cái sợ, cái hèn nhát cho đồng bào mình” (Nguyễn Chính, cựu phóng viên báo Đại Đoàn Kết).

          Chưa khi nào báo chí hèn mạt như giai đoạn này. Nhớ vài năm trước, trong bữa nhậu nhân hội nghị tuyên giáo toàn quốc tại Đà Nẵng, một lão bá vai tôi buông câu rất hách “báo chí các cậu hèn bỏ mẹ!”
          Tức. Một tay nó bóp dái, tay kia dán băng keo bịt miệng, thế mà vẫn lớn tiếng chê mình hèn. Định vung cho lão một đấm, nhưng nghĩ lại thấy lão nói đúng chứ đâu sai. Báo chí kiểu gì mà chỉ một cú điện thoại, một văn bản miệng đã răm rắp tự bịt miệng nhau.
          Một cái lệnh miệng từ văn phòng UBND huyện Văn Giang (Hưng Yên) cũng khiến tất cả hơn 700 tòa báo câm lặng, không dám cử phóng viên đến đưa tin. Khi hai phóng viên của đài tiếng nói Việt Nam (VOV) bị đánh đập, trấn áp dã man, bị còng tay bắt giữ như tội phạm, thu máy ảnh, thu thẻ nhà báo, thẻ đảng, thẻ luật gia… nhưng không một tòa báo nào dám lên tiếng, kể cả cơ quan chủ quản của họ. Và bản thân 2 nhà báo bị đánh cũng không dám công khai lên tiếng.
          Phải đợi đúng nửa tháng sau, trước sức ép dữ dội từ dư luận và sự mắng chửi từ các trang mạng lề trái, VOV mới miễn cưỡng đăng vài mẩu tin lên tiếng bảo vệ phóng viên của mình. Nhưng được vài hôm rồi im bẵng đến nay. Không còn nghe bất cứ một tòa báo nào nhắc lại chuyện này nữa. Câu chửi “Đ.M mày! Nhà báo cũng đánh cho chết mẹ mày đi” trong vụ trấn áp Văn Giang vẫn văng vẳng mãi như một nỗi ô nhục của nghề báo.
          Chưa bao giờ báo chí lại sợ hãi đến vậy. Chưa bao giờ báo chí kỳ lạ như giai đoạn này, xa lánh, tránh né hầu hết các vấn đề nhạy cảm. Vì sao tránh, vì sao không đăng, vì sao không can dự? Vì đó là vấn đề “nhạy cảm”- Một lối chỉ đạo và bao biện phản tuyên truyền, thậm chí là… phản động! Nhạy cảm mới cần báo chí can dự. Không nhạy cảm thì viết để làm gì, tuyên truyền làm gì và can dự làm gì?
          Ông Nguyễn Bắc Son, Bộ trưởng Thông tin- truyền thông kiêm Phó trưởng ban Tuyên giáo trung ương có than một câu rằng báo chí giai đoạn này “thiếu vắng những cây bút giỏi, những bài báo hay, những cây bút chúng ta từng thấy trong lịch sử như Sóng Hồng, Thép Mới, Hoàng Tùng, Hồng Hà… hoặc những nhà báo rất đáng kính trọng như Hữu Thọ, Hà Đăng, Đỗ Phượng…”
          Vì sao?
          Vì cái thời làm báo của Sóng Hồng, Thép Mới, Hoàng Tùng, Hồng Hà, Hữu Thọ, Hà Đăng, Đỗ Phượng không bao giờ phải nơm nớp lo sợ những mệnh lệnh “nhạy cảm” như thời chúng tôi. Không có ban Tuyên giáo nào cấm cản những Sóng Hồng, Thép Mới, Hoàng Tùng, Hồng Hà, Hữu Thọ, Hà Đăng, Đỗ Phượng lao vào điểm nóng, tránh điều “nhạy cảm”. Báo chí thời chúng tôi, không thiếu anh hào, nhưng không sản sinh ra nổi những Sóng Hồng, Thép Mới, Hoàng Tùng, Hồng Hà, Hữu Thọ, Hà Đăng, Đỗ Phượng… bởi nhà báo không được phép lao vào những Dương Nội, Văn Giang, Vụ Bản… Bởi một cái lệnh miệng của văn phòng UBND huyện Văn Giang thôi cũng đã khiến tất cả các tòa báo câm lặng. Bởi tất tật các vấn đề “nhạy cảm” đều không được phép viết, không được phép đăng.
          Khi nào còn những vòng siết “nhạy cảm” này, thì những mầm mống Sóng Hồng, Thép Mới, Hoàng Tùng, Hồng Hà, Hữu Thọ, Hà Đăng, Đỗ Phượng sẽ bị bóp chết ngay từ những trang bản thảo.
          Nhà báo/blogger Phan Văn Tú có một câu rất đau “trong đầu thằng nhà báo Việt nào hình như cũng có một cái kéo. Nó tự cắt nó trước khi bị người khác cắt”. Cái thói tự biên tập, tự ra lệnh, tự cột nhốt đã hình thành như một thói nết tệ hại trong làng báo.
          Còn nhà báo Đào Tuấn, cây bút kỳ cựu của Đại Đoàn Kết, nay sang tờ Dân Việt thì chua chát rằng: “nhiều người cầm bút giờ còn bi kịch hơn khi hàng ngày phải viết những điều không giống với sự thật … hàng ngày, dù không tin, nhưng vẫn phải viết ra một điều không thật– một cách khéo léo đến dối trá, để thuyết phục người đọc tin rằng đó là sự thật”
          Run sợ đến dối trá. Đến mức bao điểm nóng nhức nhối về đất đai vắng bóng nhà báo. Tại sao báo chí lại tránh né những Dương Nội, Văn Giang, Vụ Bản? Tại sao những tấm băng rôn, những vành khăn tang giữ đất nóng hực và nhức nhối tâm can lại không nên nổi “tác phẩm” nào? Tại sao lại cứ phải “viết ra một điều không thật– một cách khéo léo đến dối trá, để thuyết phục người đọc tin rằng đó là sự thật”?
          Nhìn vào danh sách các tác phẩm đoạt giải báo chí quốc gia để thấy cái gì, điều gì được phản ánh qua báo chí? Ông Hữu Thọ, cựu trưởng ban Tư tưởng-văn hóa trung ương nhận xét về các tác phẩm đoạt giải: “Vẫn còn ít những bài điều tra sâu sát công phu mà tôi thường nói là đọc trên những bài báo thấy ít giọt mồ hôi quá. Những giọt mồ hôi vào trang giấy, nó cựa quậy, nó gây xúc động con người…”.
          Với người cầm bút, phải hiểu lời nhận xét ấy không khác gì một câu… chửi!
          Báo chí chưa bao giờ nhạt chán, hèn nhục đến vậy.
          Việt Nam chưa cho phép báo chí tư nhân, không có báo đối lập. Nhưng không nên “đồng thuận” hóa tất tật trên 700 tờ báo hiện có đến mức thành một chiều, thành sợ hãi như thế thì báo chí chỉ còn là mấy tờ giấy dành để gói xôi vỉa hè. Báo chí phản biện, thậm chí phê phán, đối lập có lợi cho chính phủ hơn là báo chí ca tụng, minh họa chủ trương.
          Bạn đọc ký tên “Hâm mộ đảng ta” viết một comment vào trang tôi rằng: Chưa thấy một chính phủ nào lại sử dụng một dàn truyền thông hùng hậu đến thế chỉ để ngợi ca chính mình, huy động dàn hợp xướng bằng mọi cách phải “tạo sự đồng thuận” với mọi sai đúng mà không chú ý đến vai trò phản biện của báo chí. Có thể nói sự đồng lõa, thỏa hiệp, tuyên truyền cho những quyết sách sai trái của chính quyền trong một thời gian quá dài vừa qua là một cái tội rất to của báo chí. Nếu chú ý đến vai trò phản biện thì hẳn các nhà cai quản đã có chính sách để lựa chọn đội ngũ thực tài, đủ bản lĩnh. Nhưng vì chỉ chú trọng đến mục đích tuyên truyền ngợi ca, tạo đồng thuận, và giải trí tầm thường nên ở Việt Nam, nếu không mù chữ thì ai cũng có thể làm nhà báo được.
          Nhận định có vẻ hơi quá, cực đoan, nhưng đáng suy ngẫm.
          Ngay cả lớp Tổng Biên tập hiện thời cũng là một đội ngũ quá hèn. Trước 75, báo chí có phong trào “ngày ký giả ăn mày”, đóng cửa xuống đường đấu tranh. Thời nay, có ông Tổng nào hoặc cỡ chục tờ báo một sớm mai đồng loạt phản ứng bằng những bản báo in “bị đục bỏ”, những tờ báo trắng để phản ứng? Có ông Tổng nào dám công khai chống lệnh, một cái lệnh cấm cản quen thuộc từ những cú điện thoại, những buổi giao ban mang tên “nhạy cảm” để ưỡn ngực hiên ngang bảo vệ quyền được thông tin?
          Nói thật, dù sao tôi cũng không mê những Sóng Hồng, Thép Mới, Hoàng Tùng, Hồng Hà, Hữu Thọ, Hà Đăng, Đỗ Phượng như cách ông Nguyễn Bắc Son lấy làm “thần tượng”. Tôi mê và thèm ước những cái tên rất gần đây thôi như Võ Như Lanh, Kim Hạnh, Lê Văn Nuôi, Huỳnh Sơn Phước, Nguyễn Công Khế, Thế Thanh, Nam Đồng, Tống Văn Công… – Một thế hệ tổng biên tập tài năng rất gần với chúng tôi, nhưng không hèn nhục như bây giờ.
          Chua và nhục đến mức các trang mạng lề trái cực đoan ví von mỉa mai hình ảnh nhà báo qua vụ Văn Giang rằng: bị đánh mà không dám “ẳng” lên một tiếng.
          Lịch sử báo chí cách mạng Việt Nam chưa bao giờ nhạt chán, hèn nhục như lúc này. Tôi không nói quá đâu. Tự thân mỗi nhà báo, tôi tin ai cũng nhìn ra điều này.
          Mà “cái sợ cái hèn của người cầm bút, nhất là làm báo, nguy hiểm lắm. Rất vô thức, nhưng anh ta sẽ làm “lây nhiễm” cái sợ, cái hèn nhát cho đồng bào mình”

                                  (Nguyễn Chính, cựu phóng viên báo Đại Đoàn Kết).


Giải thưởng nào cho “nhà báo trong lòng dân”?

            (Theo SGTT.VN ) - Hiểu theo chính danh, Ngày báo chí cách mạng Việt Nam 21.6 là ngày của nghề báo chứ không phải của nhà báo. Cách hiểu này có vẻ ngày càng hợp lý, khi mà ranh giới giữa người làm báo chuyên nghiệp và những người có khả năng cung cấp thông tin cho công chúng đang mờ dần.
   Chỉ mới đây thôi, trong khi một số nhà báo chính quy chỉ chăm chăm hướng ống kính vào chỗ kín của nghệ sĩ, thì đã có những người dân thay họ làm chứng nhân của sự thật. Vì vậy, kỷ niệm ngày Báo chí cách mạng Việt Nam năm nay, mời bạn đọc thử so sánh quan niệm làm báo xưa với nay, báo chí “lề phải” với “lề trái”, cách tác nghiệp của nhà báo chính quy và của các công dân vô danh nhưng không vô cảm với thời cuộc, để từ đó có một cái nhìn chân thực về nghề báo hôm nay.
            Theo lệ, cứ đến 21.6 là những người làm trong các cơ quan báo chí nhận được rất nhiều chúc mừng, thăm hỏi, biểu dương... của các cơ quan, lãnh đạo các cấp và cả không ít chiêu đãi tiệc tùng của giới doanh nghiệp. Bên cạnh đó, những năm gần đây còn có rất nhiều “công dân làm báo” hay “nhà báo không xưng danh” nhưng đã đóng góp không nhỏ cho xã hội qua những thông tin phản ánh chân thực, kịp thời nhiều vấn đề nóng bỏng của cuộc sống. Họ đáng nhận được phần thưởng nào?
            Những “nhà báo công dân” – “nhà báo không xưng danh” kể trên thường không có được điều kiện, cơ hội hoạt động, thu thập thông tin dễ dàng như những nhà báo chính quy hưởng lương của các cơ quan báo chí. Thế nhưng, không ít thông tin mà họ âm thầm tự tìm kiếm, thu thập, cung cấp cho các báo, đài hay tự công bố lại rất đắt giá, tác động không nhỏ đến đời sống xã hội và thực sự đọng được trong lòng người đọc – trong lòng dân.
            Một trong những dẫn chứng còn nóng hổi tính thời sự, chính là thực trạng tiêu cực trong thi cử đã bị tố cáo, phơi bày qua các video clip mà một thí sinh cùng những người hỗ trợ tự tổ chức quay ngay trong phòng thi tốt nghiệp trung học phổ thông vừa diễn ra ở trường THPT dân lập Đồi Ngô (huyện Lục Ngạn, Bắc Giang). Tiêu cực trong thi cử ở nước ta vốn đã tồn tại trong rất nhiều kỳ thi, ở nhiều cấp, nhiều nơi. Bộ Giáo dục và đào tạo đã phát động thành phong trào “Nói không với bệnh thành tích và tiêu cực trong thi cử”, triển khai thực hiện trong toàn ngành suốt mấy năm qua. Tình trạng đó cũng được dư luận xã hội và báo chí quan tâm, phản ánh rất nhiều. Thế nhưng, thẳng thắn nhìn nhận thì cho đến nay chưa có cơ quan chức năng hay nhà báo chuyên nghiệp nào thu thập, ghi nhận được thực trạng và bằng chứng tiêu cực trong thi cử một cách rõ ràng, đầy thuyết phục và không còn đường chối cãi như thí sinh ở trường THPT dân lập Đồi Ngô đã làm được. Về góc độ báo chí – truyền thông thì đó quả là một trong những sản phẩm báo chí xuất sắc.
            Cho đến nay chưa có cơ quan chức năng hay nhà báo chuyên nghiệp nào thu thập, ghi nhận được thực trạng và bằng chứng tiêu cực trong thi cử một cách rõ ràng, đầy thuyết phục và không còn đường chối cãi như thí sinh ở trường THPT dân lập Đồi Ngô đã làm được.
            Hoặc cách đây không lâu, phóng sự truyền hình do một đài truyền hình cấp tỉnh tổ chức, trang bị phương tiện hiện đại cho nhiều nhà báo chuyên nghiệp của đài ghi lại hành động đánh đập trẻ em của người giữ trẻ tại một nhà trẻ gia đình, đã được trao giải nhất báo chí quốc gia. Sau khi nhận giải hơn cả năm trời, các nhà báo đoạt giải vẫn còn kể lại khá nhiều câu chuyện về quá trình tác nghiệp, với không ít biện pháp nghiệp vụ “thông minh, mưu trí” để vượt qua khó khăn, nguy hiểm mà làm nên tác phẩm báo chí ấy. Còn gần đây, trong các vụ cưỡng chế ở Tiên Lãng (Hải Phòng) hay Văn Giang (Hưng Yên), rất nhiều báo, đài trong và ngoài nước đã đăng tải hình ảnh, video clip ghi lại hiện trường nhưng đều không phải do những nhà báo chính quy của các báo, đài ấy thực hiện, mà là tác phẩm của những “nhà báo công dân” cung cấp. Cho đến nay, tác giả của những “tác phẩm báo chí” đó vẫn chưa tự xưng danh. Những “nhà báo không xưng danh” ấy cũng không kể gì về quá trình “tác nghiệp” để có được sản phẩm đã cung cấp cho các báo, đài sử dụng đăng tải. Thế nhưng, người đọc, người xem chắc chắn sẽ hiểu được là quá trình “tác nghiệp” ấy cũng không kém khó khăn, và cả nguy hiểm so với việc các nhà báo chuyên nghiệp đã gặp và đã kể trong quá trình thực hiện phóng sự truyền hình về người giữ trẻ, đánh trẻ đã được tặng thưởng giải nhất báo chí quốc gia.
            Còn rất nhiều trường hợp và “tác phẩm báo chí” do chính những công dân bình thường làm thay cho các nhà báo chính quy và được công bố, đăng tải trên báo đài, giống như các trường hợp kể trên. Những tác phẩm báo chí đó đã phản ánh được các góc cạnh chân thực của nhiều sự việc xảy ra. Trong đó, có cả việc góp phần minh định để bảo vệ sự thật cho cả nhà báo chính quy trong quá trình tác nghiệp tại hiện trường, như trường hợp hai nhà báo VOV bị đánh trong vụ cưỡng chế đất tại Văn Giang. Đó cũng là góp phần nhằm giúp lãnh đạo và cơ quan chức năng xem xét, chỉ đạo, xử lý kịp thời, công minh các vấn đề liên quan trong nhiều vụ việc. Những “tác phẩm báo chí” của các “nhà báo công dân” ấy chưa thể lọt vào danh sách xem xét trao giải thưởng báo chí chính quy các cấp. Thế nhưng, gây được ấn tượng và đọng sâu trong lòng người đọc, người xem – đó cũng chính là một giải thưởng – “giải thưởng trong lòng dân”, dành cho những người thực sự xứng danh là “nhà báo trong lòng dân”…

                                                                                     Phan Sông Ngân

Đảo Song Tử Tây, Song Tử Đông

Nhân tiện KC đăng ảnh về 1 vài hòn đảo thuộc quần đảo Trường Sa, mình nhặt trên Net vài thông tin sơ lược về 2 đảo Song Tử Tây và Song Tử Đông. Mọi người vào Gúc biết hết mà!

1/ Song Tử Tây
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Song Tử Tây (tên quốc tế: Southwest Cay, tên Philipines: Pugad, Trung văn giản thể: 南子; bính âm: Nánzi dǎo, Hán Việt: Nam Tử đảo) là một cồn san hô trong quần đảo Trường Sa.

Đảo Song Tử Tây nằm tại tọa độ 11o26' vĩ Bắc, 114o20' kinh Đông, thuộc xã đảo Song Tử Tây, huyện Trường Sa, Khánh Hòa, Việt Nam. Đảo rộng 12 hecta, là đảo lớn hàng thứ sáu trong số các đảo tại quần đảo Trường Sa, và là đảo lớn thứ hai do Việt Nam quản lý, sau đảo Trường Sa.

Song Tử Tây cách đảo Song Tử Đông 2,82 km và có thể nhìn thấy đảo này ở đường chân trời. Đảo có điểm cao nhất quần đảo: 4 m trên mực nước biển. Vành đá bao quanh nổi một phần khi triều lên. Đây đã từng là nơi đẻ trứng của chim và được phủ bởi cây và phân chim.

Lịch sử hành chính

Năm 1933, chính quyền Pháp chính thức sát nhập quần đảo Trường Sa, bao gồm cả các đảo Song Tử Đông và Song Tử Tây. Chuyến đi này bao gồm ba thuyền, Alerte, Astrobale và De Lanessan. Tới năm 1956, Pháp chuyển các đảo này cho chính quyền Việt Nam cộng hòa.
Năm 1959, Chính phủ Việt Nam cộng hòa đổi tên các đảo này thành Song Tử, và nhập vào tỉnh Phước Tuy. Tới năm 1963, thủy thủ các tàu Hương Giang, Chi Lăng và Kỳ Hòa của Việt Nam cộng hòa thiết lập bia chủ quyền tại các đảo Song Tử Đông và Song Tử Tây.
Năm 1968, binh lính Philippines chiếm đóng các đảo Song Tử Đông và Song Tử Tây, mà họ gọi là Parola và Pugad.
Năm 1974, sau khi hải quân Trung Quốc giao tranh với hải quân Việt Nam cộng hòa trong trận hải chiến Hoàng Sa 1974 và đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa, chính quyền Việt Nam cộng hòa cho tiến hành chiến dịch Trần Hưng Đạo 48, bất ngờ đổ quân chiếm lại đảo Song Tử Tây từ quân Phillippines khi toán quân đồn trú tại đây sang đảo Song Tử Đông dự tiệc mừng viên chỉ huy tại đảo này.
Sau tháng 4 năm 1975, hải quân Việt Nam dân chủ cộng hòa đánh chiếm lại đảo này từ tay lực lượng đồn trú hải quân Việt Nam cộng hòa tại đây. Kể từ đó không có ghi nhận về một cuộc xung đột nào nữa tại đảo này.
Năm 2007, chính phủ Việt Nam thành lập xã Song Tử Tây thuộc huyện Trường Sa trên cơ sở đảo Song Tử Tây và các đảo, đá, bãi phụ cận[1] thuộc cụm đảo Song Tử.

Thông tin khác

Việt Nam dựng ngọn hải đăng đầu tiên trên quần đảo Trường Sa tại đây vào tháng 10 năm 1993. Đây là hải đăng cấp 1, thuộc hệ thống bảo đảm an toàn hàng hải quốc tế[2]. Trên đảo còn có một đường băng và một tòa nhà 3 tầng làm nơi đóng quân, có một trạm khí tượng thủy văn.
Trên đảo trồng nhiều cây xanh như phong ba, bão táp, mu, keo lá tràm, nhầu, phi lao, bàng vuông, tra biển... Đảo trồng được rau và tự túc được rau xanh quanh năm. Trên đảo còn chăn nuôi bò, lợn, chó, gà, vịt..

2/ Song Tử Đông
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Song Tử Đông (tên quốc tế: Northeast Cay, tiếng Filipino: Parola, Trung văn giản thể: 北子; bính âm: Běizi dǎo, Hán Việt: Bắc Tử đảo) là đảo lớn thứ 5 trong quần đảo Trường Sa, do Philippines chiếm giữ từ năm 1971. Diện tích 12,7 ha.
Đảo nằm ở vị trí 11°28' Bắc, 114°21' Đông. Đảo này cách đảo Song Tử Tây do Việt Nam quản lý 2,82 km và có thể nhìn thấy ở đường chân trời, cách đảo Thị Tứ 45 km về phía tây bắc. Trên đảo có cây cỏ sinh sống.
Năm 1933, chính quyền Pháp chính thức sát nhập quần đảo Trường Sa, bao gồm cả các đảo Song Tử Đông và Song Tử Tây. Chuyến đi này bao gồm ba thuyền, Alerte, Astrobale và De Lanessan. Tới năm 1956, Pháp chuyển các đảo này cho chính quyền Việt Nam cộng hòa.
Năm 1959, Chính phủ Việt Nam cộng hòa đổi tên các đảo này thành Song Tử, và nhập vào tỉnh Phước Tuy. Tới năm 1963, thủy thủ các tàu Hương Giang, Chi Lăng và Kỳ Hòa của Việt Nam cộng hòa thiết lập bia chủ quyền tại các đảo Song Tử Đông và Song Tử Tây.
Năm 1968, binh lính Philippines chiếm đóng các đảo Song Tử Đông và Song Tử Tây, mà họ gọi là Parola và Pugad.
Năm 1974, sau khi hải quân Trung Quốc giao tranh với hải quân Việt Nam cộng hòa trong trận hải chiến Hoàng Sa 1974 và đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa, chính quyền Việt Nam cộng hòa cho tiến hành chiến dịch Trần Hưng Đạo 48, bất ngờ đổ quân chiếm lại đảo Song Tử Tây từ quân Philippines khi toán quân đồn trú tại đây sang đảo Song Tử Đông dự tiệc mừng viên chỉ huy tại đảo này. Khi đó Việt Nam cộng hòa và Philippines trên danh nghĩa vẫn là đồng minh.
Sau tháng 4 năm 1975, hải quân Việt Nam dân chủ cộng hòa tiếp quản đảo Song Tử Tây từ lực lượng đồn trú hải quân Việt Nam cộng hòa tại đây. Kể từ đó đảo Song Tử Tây nằm dưới sự quản lý của Việt Nam, đảo Song Tử Đông tiếp tục do Philippines quản lý.


29 thg 7, 2012

Ảnh Trường Sa (tiếp)

Mình gửi tiếp lên đây một số ảnh về Trường Sa (trong số rất nhiều ảnh) mà con trai mình đã chụp khi đi công tác Trường Sa hồi tháng 4 để mọi người thêm yêu quý biển đảo của Tổ Quốc.

 Đảo Song Tử Tây

Bình minh trên đảo Song Tử Tây
Phía xa là đảo Song Tử  Đông đang bị nước ngoài (Philippines) chiếm đóng
Chiến sĩ trẻ và Cột mốc chủ quyền

Trên đảo không chỉ có bộ đội mà còn có các đơn vị phối thuộc, Ngọn Hải Đăng do cán bộ Bộ GTVT đảm nhiệm
Nhờ có cây xanh che mát nên các cô cậu ủn ỉn  nõn nà này đang đánh một giấc say nồng
Đang tập dượt cho trương trình "Chúng tôi là chiến sĩ"
Công dân tý hon của Đảo Song Tử Tây (đây không phải là hai bố con) 
Rau xanh trên đảo
Ủy Ban Nhân dân xã Song Tử Tây
Khu nhà ở của dân cư trên đảo

 

Quần đảo Hoàng sa , xưa và nay

Sự có mặt của con người

Biển Đông và vùng Đông Nam Á được Matteo Ricci vẽ trong Khôn Dư Vạn Quốc Toàn Đồ in tại Trung Quốc năm 1602, có ghi dòng chú thích bằng chữ Hán 万里長沙 (Vạn lý Trường Sa).

Dấu ấn sớm nhất ghi lại được của con người với quần đảo Trường Sa là từ khoảng năm thứ 3 trước Công nguyên. Điều này dựa trên một số phát hiện rằng những người đánh cá, đa số là cư dân từ Vương quốc Chăm Pa cổ của Việt Nam hoặc cư dân cổ xuất phát từ đảo Hải Nam và các vùng đất nay là các quận ở tỉnh Quảng Đông đã đến quần đảo Trường Sa, và các đảo khác ở vùng Biển Đông để đánh cá hàng năm. Vào thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, thỉnh thoảng có một số thuỷ thủ từ một số nước lớn châu Âu (gồm hoặc Richard Spratly hoặc William Spratly) đến quần đảo Trường Sa, từ đó quần đảo có tên tiếng Anh là Spratly và tên này được thừa nhận chung, nhưng các nước châu Âu hồi đó còn ít chú ý đến quần đảo này. Đa số các tên tiếng Anh của các đảo, đảo nhỏ và đảo chìm được những ngư dân Việt Nam đặt. Các tàu Đức đến nghiên cứu quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa năm 1883 nhưng cuối cùng đã rút lui sau khi có những phản ứng từ phía nhà Nguyễn của Việt Nam.
Các bản đồ địa lý Việt Nam cổ ghi nhận Bãi Cát Vàng (được dùng để chỉ chung cả Hoàng Sa và Trường Sa) là lãnh thổ Việt Nam từ đầu thế kỷ 17. Trong cuốn "Phủ biên tạp lục" của Lê Quý Đôn, Hoàng Sa và Trường Sa được xác định rõ thuộc về tỉnh Quảng Ngãi (dân binh 2 đội Bắc Hải và đội Hoàng Sa đều do đội Hoàng Sa ở xã An Vĩnh huyện Bình Sơn kiêm quản). Ông miêu tả đó là nơi người ta có thể khai thác các sản phẩm biển và những đồ vật sót lại từ các vụ đắm tàu. Lê Quý Đôn viết: "Tôi đã từng thấy một đạo công văn của quan chính đường huyện Văn Xương Quỳnh Châu gửi cho Thuận Hóa nói rằng: năm Càn Long thứ 18 (1753), có 10 tên quân nhân xã An Vĩnh tổng Cát Liềm huyện Chương Nghĩa phủ Quảng Ngãi nước An Nam, một ngày tháng 7 đến Vạn Lý Trường Sa (萬里長沙, tức quần đảo Trường Sa) tìm kiếm các thứ, có 8 tên lên bờ tìm kiếm, chỉ để 2 tên giữ thuyền, bị gió đứt dây thuyền, giạt vào Thanh Lan cảng, quan ở đấy xét thực, đưa trả về nguyên quán..."[1][2] (10 người dân binh Việt này là đội Bắc Hải phụ trách các đảo từ xứ Bắc Hải (Đông Bắc Biển Đông), cù lao Côn Lôn, và các đảo ở Hà Tiên. Đội Hoàng Sa phụ trách chính ở Hoàng Sa). Tài liệu ghi chép Việt Nam vào thế kỷ 17 nhắc đến các hoạt động kinh tế được tài trợ của chính phủ dưới triều nhà Lê từ 200 năm trước đó. Chúa Nguyễn (ở Đàng Trong) và nhà Nguyễn sau đó đã tiến hành nhiều cuộc nghiên cứu địa lý về các đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ thế kỷ 18thế kỷ 19.
Quần đảo Trường Sa (tức Vạn lý Trường Sa, 萬里長沙) được thể hiện trong Đại Nam nhất thống toàn đồ (năm 1834-1840).

Các bản đồ về địa lý cổ của Trung Quốc có vẽ quần đảo Trường Sa nhưng không tỏ rõ các đảo là lãnh thổ Trung Quốc. Trong khi ấy, một nhà sư của đất nước này là Thích Đại Sán (1633 - 1704, hiệu Thạch Liêm, quê ở tỉnh Giang Tây, Trung Quốc, đến Phú Xuân vào năm 1695 theo lời mời của chúa Nguyễn Phúc Chu) đã tỏ hoạt động thực thi chủ quyền của Đại Việt (Việt Nam) đối với quần đảo Trường Sa (và Hoàng Sa) trong tập sách Hải ngoại kỷ sự (quyển 3) của mình. Trích một đoạn sách liên quan:
"Khách có người bảo: mùa gió xuôi trở về Quảng Đông chừng vào độ nửa tháng trước và sau mùa lập thu. Chừng ấy gió Tây Nam thổi mạnh, chạy một lèo gió xuôi chừng 4, 5 ngày đêm có thể đến Hổ Môn [3] Nếu chờ đến sau mùa nắng, gió bấc dần dần nổi lên, nước chảy về hướng Đông, sức gió Nam yếu, không chống nổi dòng nước chảy mạnh về phía Đông, lúc đó sẽ khó giữ được sự yên ổn. Bởi vì có những cồn cát nằm thẳng dọc biển, chạy từ Đông Bắc qua Tây Nam; đống cao dựng đứng như vách tường, bãi thấp cũng ngang mặt nước biển, mặt cát khô rắn như sắt, rủi thuyền đụng phải hẳn tan tành; bãi cát rộng hàng trăm dặm, chiều dài thăm thẳm chẳng biết bao nhiêu mà kể gọi là Vạn lý Trường Sa, mù tít chẳng có cây nhà cửa. Nếu thuyền bị trái gió, trái nước mà lạc vào, dẫu không tan nát cũng không gạo không nước, trở thành ma đói mà thôi. Quãng ấy cách Đại Việt 7 ngày đường, chừng 700 dặm. Quốc Vương trước, hàng năm sai thuyền đánh cá đi dọc từng bãi cát, lượm vàng bạc, khí cụ của các thuyền hư hỏng dạt vào. Mùa thu nước ròng cạn rút về phía Đông, bị một ngọn sóng đưa đi, thuyền có thể trôi xa hàng trăm dặm; sức gió chẳng mạnh sợ gặp hiểm hoạ Trường Sa".
Cuốn sách Hải ngoại kỷ sự là một tài liệu cổ đáng tin cậy. Nguyên bản in sách này hiện còn được lưu giữ tại Đông Dương Văn khố Nhật Bản và Quốc lập Trung ương đồ thư quán Trung Hoa [4]
Sang thập niên 1930, Pháp tuyên bố chủ quyền lãnh thổ của Chính phủ Bảo hộ đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thay cho Việt Nam, lúc đó đang là nước thuộc địa của Pháp. Họ chiếm đóng một số đảo thuộc Trường Sa, gồm cả đảo Ba Bình, và xây các trạm khí tượng trên hai đảo, và sau đó quản lý chúng như một phần lãnh thổ của Đông Dương thuộc Pháp. Sự chiếm đóng này bị chính phủ quốc gia Trung Quốc phản đối bởi vì theo họ thì khi các tàu chiến của Pháp tới chín đảo thì trên biển có một số ngư dân gốc Trung Quốc đánh cá, theo họ thì các ngư dân này đã xé cờ Pháp sau khi tàu của Pháp rời khỏi đảo. Sau đó, Nhật Bản chiếm một số đảo trong Thế chiến thứ hai, và sử dụng các đảo này làm căn cứ tàu ngầm cho các chiến dịch ở Đông Nam Á. Dưới thời đó, những đảo này được gọi là Shinnan Shoto (新南諸島 - âm Hán Việt: Tân Nam chư đảo, nghĩa là "nhóm đảo mới phía Nam"), cùng với quần đảo Hoàng Sa được đặt dưới sự cai trị của Chính quyền Nhật tại Đài Loan. Sau khi Nhật Bản bị đánh bại, Quốc Dân Đảng tuyên bố chủ quyền toàn bộ quần đảo Trường Sa (gồm cả đảo Ba Bình) và chấp nhận sự đầu hàng của người Nhật. Nhật Bản rút bỏ tất cả các tuyên bố chủ quyền đối với các đảo vào năm 1951 theo Hiệp ước Hoà bình San Francisco. Trong hiệp ước với Trung Hoa Dân quốc, Nhật một lần nữa rút bỏ chủ quyền khỏi các đảo cùng với Hoàng Sa, Đông Sa (Pratas) và các đảo đã chiếm của Trung Quốc. Tuy nhiên, Quốc Dân Đảng đã rút khỏi Trường Sa và Hoàng Sa khi họ bị các lực lượng của Đảng Cộng sản Trung Quốc đối lập đánh bại năm 1949.
Tháng 4 năm 1950 Pháp trao lại quyền quản lý quần đảo Trường Sa (và Hoàng Sa) cho chính phủ Quốc gia Việt Nam thời quốc trưởng Bảo Đại nhưng việc đồn trú vẫn do quân đội Pháp đảm nhiệm, và khi người Pháp rời khỏi Việt Nam sau Hiệp định Genève, 1954, quyền kiểm soát thuộc về quân đội Quốc gia Việt Nam và kế tiếp là quân đội Việt Nam Cộng hòa thực hiện chủ quyền đóng giữ Trường Sa. Sau khi Việt Nam thống nhất năm 1975, các lực lượng hải quân của Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã tiếp quản từ quân đội Việt Nam Cộng hòa cho đến nay

Tranh chấp chủ quyền

Dấu hiệu đầu tiên cho thấy quần đảo Trường Sa không chỉ đơn giản là một mối nguy cho tàu chở hàng đi qua đó là khi vào năm 1968 người ta tìm thấy dầu mỏ trong vùng. Theo ước tính của Bộ Địa chất và Tài nguyên Khoáng sản Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa vùng quần đảo Trường Sa có chứa trữ lượng dầu và khí đốt tự nhiên rất lớn, lên đến 17,7 tỷ tấn (1,60 × 1010 kg), so với 13 tỷ tấn (1,17 × 1010 kg) của Kuwait, và họ xếp nó vào danh sách một trong bốn vùng có trữ lượng dầu khí lớn nhất thế giới. Đương nhiên, tiềm năng trữ lượng dầu khí to lớn này góp phần làm tình hình thêm căng thẳng và thúc đẩy các nước trong vùng tuyên bố có chủ quyền. Ngày 11 tháng 3 năm 1976, cuộc thám hiểm dầu khí lớn đầu tiên của Philippines được tiến hành ngoài khơi Palawan, trong khu vực quần đảo Trường Sa, và các khu khai thác ở đó hiện chiếm năm mươi phần trăm toàn bộ số dầu tiêu thụ tại Philippines.
Các nước tuyên bố chủ quyền không cấp giấy phép khai thác ngoài khơi trong vùng đảo vì sợ gây ra một sự xung đột lập tức. Các công ty nước ngoài cũng không đưa ra bất kỳ một cam kết nào về việc khai thác vùng này cho đến khi tranh cãi về lãnh thổ được giải quyết hay các nước tham gia đạt được thoả thuận chung.
Một động cơ khác để tranh chấp là trữ lượng khai thác cá thương mại của vùng biển quần đảo Trường Sa. Vào năm 1988, Biển Đông chiếm 8% tổng số lượng đánh bắt cá và hải sản của thế giới, một con số chắc chắn còn có thể tăng lên. Trung Quốc đã dự đoán rằng Biển Đông chứa lượng cá và các nguồn dầu mỏ, khí gas tự nhiên có giá trị lên đến một nghìn tỷ đôla. Đã có nhiều cuộc xung đột xảy ra giữa Philippines và các nước khác - đặc biệt là Trung Quốc - về những tàu đánh cá nước ngoài trong Vùng đặc quyền kinh tế của họ và báo chí cũng thường đưa tin về những vụ bắt giữ ngư dân Trung Quốc.
Vùng này cũng là một trong những vùng có mật độ hàng hải đông đúc nhất trên thế giới. Trong thập niên 1980, mỗi ngày có ít nhất 270 lượt tàu đi qua quần đảo Trường Sa, và hiện tại hơn một nửa số tàu chở dầu siêu cấp của thế giới chạy qua vùng biển này hàng năm. Lượng tàu chở dầu chạy qua Biển Đông lớn gấp ba lần lượng tàu chạy qua kênh Suez và gấp năm lần lượng tàu qua Kênh đào Panama; gần 20% lượng dầu thô trên thế giới được chuyên chở ngang qua Biển Đông.
Có nhiều ám chỉ rằng Trung Quốc đã sáp nhập và chiếm các đảo không phải chỉ vì mục tiêu khai thác tài nguyên mà còn để giám sát các hoạt động trên biển Đông. Ví dụ, đá Vành Khăn là một điểm lý tưởng để quan sát các tàu của Hải quân Mỹ chạy qua vùng biển phía tây Philippines. Việc Trung Quốc chiếm đảo này cũng có thể có mục đích đối chọi với Đài Loan hơn là với Philippines bởi vì Trường Sa nằm ngang vùng biển thiết yếu của Đài Loan. Đó cũng có thể chỉ đơn giản là một nỗ lực của Trung Quốc nhằm thông báo sự củng cố quyền bá chủ trong vùng của họ.
Một xô xát diễn ra liên quan tới một tàu dân sự vào ngày 10 tháng 4 năm 1983, khi một du thuyền của Đức bị bắn chìm. Không ai bị coi là chịu trách nhiệm về vụ này.
Để trả lời cho những lo ngại ngày càng tăng bởi các nước có bờ biển ở vùng biển quần đảo Trường Sa về sự xâm phạm của các tàu nước ngoài đối với tài nguyên thiên nhiên của họ, Liên hiệp quốc đã họp và ra Công ước Quốc tế về luật biển (UNCLOS) năm 1982 để xác định các vấn đề về các biên giới biển quốc tế. Về những lo lắng trên, chúng được giải quyết rằng một nước có đường bờ biển có thể tuyên bố 200 dặm hàng hải quyền tài phán từ biên giới đất liền của mình. Tuy nhiên UNCLOS không thể giải quyết vấn đề làm thế nào để giải quyết các tranh chấp chồng lấn và vì thế tương lai của quần đảo vẫn còn mờ mịt.
Năm 1984, Brunei lập ra một vùng đặc quyền đánh cá bao gồm cả đảo ngầm Louisa ở phía nam quần đảo Trường Sa, nhưng không công khai tuyên bố chủ quyền hòn đảo. Sau đó, vào năm 1988, Việt Nam và Trung Quốc một lần nữa lại đụng độ ở biển về quyền sở hữu đảo ngầm Johnson thuộc Trường Sa. Tàu chiến Trung Quốc đánh đắm các tàu chở đội quân đổ bộ Việt Nam. Hai nước bình thường hoá quan hệ vào năm 1991 và Chủ tịch Giang Trạch Dân sau đó đã hai lần viếng thăm Việt Nam, nhưng hai nước vẫn đối đầu về tương lai của Trường Sa.
Năm 1992, Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa và Việt Nam trao các hợp đồng thăm dò dầu khí cho các công ty Mỹ trên vùng chồng lấn ở Trường Sa; và vào tháng 5 năm 1992, Công ty dầu khí ngoài khơi quốc gia Trung Quốc (CNOOC) và Crestone Energy (một công ty Mỹ có trụ sở ở Denver, Colorado) đã ký một hợp đồng hợp tác để cùng thăm dò lô Wan'an Bei-21, một vùng rộng 25.155 km² ở phía tây nam Biển Đông gồm cả các vùng quần đảo Trường Sa. CNOOC cung cấp các dữ liệu về địa chất và các thông tin khác về đáy biển vùng đó trong khi Crestone đồng ý chịu mọi chi phí và tiếp tục tiến hành thăm dò địa chất và khoan trong vùng. Hợp đồng được kéo dài tới năm 1999 sau khi Crestone thất bại trong việc hoàn thành thăm dò. Một phần trong hợp đồng của Crestone bao gồm cả hai block 133 và 134 của Việt Nam nơi Petro Vietnam và ConocoPhillips Vietnam Exploration & Production, một đơn vị của ConocoPhillips, đã đồng ý đánh giá khả năng vào tháng 4 năm 1992. Điều này dẫn tới một sự chạm trán giữa Trung Quốc và Việt Nam, với việc mỗi nước đều yêu cầu rằng bên kia huỷ bỏ hợp đồng của mình. Xung đột cấp độ cao hơn nữa diễn ra đầu năm 1995 khi Philippines tìm thấy một kết cấu quân sự đầu tiên ở đảo ngầm Mischief, 130 dặm biển ngoài khơi Palawan. Việc này thúc đẩy chính phủ Philippines đưa ra một kháng cáo chính thức đối với sự chiếm đóng hòn đảo của Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa và Hải quân Philippines bắt giữ sáu mươi hai ngư dân Trung Quốc ở bãi Trăng Khuyết, cách Palawan 80 kilômét. Một tuần sau, sau sự xác nhận của Fidel Ramos về việc ra lệnh tăng cường cho các lực lượng quân sự trong vùng, Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa tuyên bố rằng kết cấu đó là các chòi tạm dành cho ngư dân.
Tiếp theo sự tranh cãi đó, Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa và các nước thành viên ASEAN, với sự môi giới của ASEAN, đã đạt được một thoả thuận rằng một nước sẽ thông báo tới các nước còn lại về hành động quân sự của mình bên trong vùng lãnh thổ tranh chấp và sẽ không tiến hành xây dựng thêm các công trình. Thoả thuận nhanh chóng bị Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa và Malaysia xâm phạm. Tuyên bố rằng vì bị hư hại do bão, bảy tàu Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa tiến vào vùng đó để sửa "các chòi ngư dân" ở đảo ngầm Panganiban. Malaysia xây dựng một kết cấu trên bãi Thám Hiểm và đổ bộ tại đảo ngầm Rizal, cả hai chỗ này đều nằm bên trong vùng EEZ của Philippines. Để trả đũa Philippines trao phản đối chính thức, yêu cầu dỡ bỏ các kết cấu đó, tăng cường tuần tra hải quân ở Kalayaan và mời các nhà chính trị Mỹ tới giám sát các căn cứ của Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa bằng máy bay.
Tới năm 1998, Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa tiếp tục sự sáp nhập các đảo của mình, đặt các cột mốc lãnh thổ hay phao trên bãi Suối Ngà và thứ hai, bãi cát Pennsylvania, bãi Trăng Khuyếtđảo san hô vòng Sabina cùng đảo Jackson, vùng quần đảo Trường Sa được đưa vào danh sách một trong tám điểm nóng xung đột trên thế giới. Cuối năm 1998, các căn cứ của Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa đã bao quanh các tiền đồn của Philippines. Một sỹ quan Hải quân hoàng gia Anh phân tích các bức ảnh chụp các kết cấu của Trung Quốc và tuyên bố rằng Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa "có lẽ đang chuẩn bị chiến tranh". Quan hệ giữa ManilaBắc Kinh đã xấu đi tới mức sắp xảy tới xung đột.
Đầu thế kỷ 21, như một phần trong chính sách ngoại giao lúc đầu được gọi là "khái niệm an ninh mới" và "sự lớn mạnh của Trung Quốc hoà bình", Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa giảm bớt chạm trán ở quần đảo Trường Sa. Gần đây Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa tiến hành thương lượng với các nước ASEAN nhằm mục đích thực hiện đề xuất tự do thương mại giữa 10 nước tham gia. Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa và ASEAN cũng đã thoả thuận đàm phán để đưa ra một bộ luật ứng xử nhằm giảm căng thẳng tại các đảo tranh chấp. Ngày 5 tháng 3 năm 2002, một thoả thuận đã ra đời, công bố mong ước của các nước liên quan giải quyết vấn đề chủ quyền "mà không sử dụng thêm nữa vũ lực". Tháng 11 năm 2002, một tuyên bố về ứng xử của các bên tại Biển Đông được ký kết, làm giảm căng thẳng nhưng không phải là một bộ luật ứng xử mang tính bắt buộc.
Bản đồ Biển Đông do người Hà Lan vẽ vào năm 1754 ghi nhận quần đảo Hoàng Sa dưới tên De Paracelles. (Trong giới hạn quần đảo De Paracelles, có 2 nhóm đảo, nhóm đảo phía nam tách rời (không được ghi chú) có hình dạng và vị trí tương đối giống với nhóm đảo Vạn lý Trường Sa (萬里長沙) của Đại Nam nhất thống toàn đồ).
Vào năm 2007, Việt Nam và hãng BP của Anh đang chuẩn bị thực hiện dự án trị giá hai tỷ đôla lắp đặt đường ống dẫn khí đốt thiên nhiên từ hai mỏ khí ở khu vực quần đảo Trường Sa thuộc vùng chủ quyền của Việt Nam đồng thời tổ chức bầu cử Quốc hội Việt Nam khóa XII sẽ được tiến hành ngày 20/5 tại quần đảo Trường Sa thì người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Lão Tần Cương nói trong buổi họp báo thường kỳ "Việt Nam áp dụng hàng loạt hành động mới trên quần đảo Nam Sa đã đi ngược với nhận thức chung quan trọng về các vấn đề trên biển" mà hai bên đã đạt được. Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Tần Cương gọi đây là hành động "xâm phạm chủ quyền lãnh thổ cũng như chủ quyền và quyền cai quản của Trung Quốc và Trung Quốc bày tỏ hết sức quan tâm việc này và đã giao thiệp nghiêm khắc với Việt Nam" trong lúc Chủ tịch Quốc hội Việt Nam Nguyễn Phú Trọng đang có chuyến thăm chính thức nước này. Trong khi phía Trung Quốc lại cho các công ty dầu khí, mà điển hình là PetroChina, thăm dò và khai thác dầu khí trong khu vực tranh chấp[5].
Sau đó vào tháng 6 năm 2007 phát ngôn nhân của BP Plc, ông David Nicholas, nói rằng hãng này thấy rằng "nên ngừng kế hoạch khảo sát địa chấn tại lô 5.2 để cho các nước liên quan có cơ hội giải quyết vấn đề". Khu thăm dò địa chấn, lô 5.2, mà BP dự định tiến hành nằm ở giữa Việt Nam và quần đảo Trường Sa, cách bờ biển Việt Nam khoảng 370 km. Tuy nhiên người phát ngôn của BP lại nói với Reuters rằng công việc tại các lô 5.2 và 5.3 là kế hoạch lâu dài chứ không phải trước mắt[6].
Trung Quốc ngày càng gây hấn bằng vũ lực trên quần đảo Trường Sa. Vào tháng 4 năm 2007 Trung Quốc đã bắt 41 ngư dân Việt Nam và chỉ trả tự do cho họ sau khi những người này nộp phạt. Đến ngày 9 tháng 7 tàu Hải quân Trung Quốc đã nã súng vào một số thuyền đánh cá của ngư dân Việt Nam trong vùng biển gần Trường Sa, cách Thành phố Hồ Chí Minh 350 km làm chìm một thuyền đánh cá của Việt Nam, ít nhất một ngư dân thiệt mạng và một số người khác bị thương. Nguyên nhân chính dẫn tới các mâu thuẫn gữa hai nước là trữ lượng trên 600 triệu thùng của Việt Nam mà Trung Quốc tuyên bố nằm trong vùng biển chủ quyền trong khi giá dầu thô có thể tăng lên đến 100 USD vào cuối năm 2007[7]. Phía Việt Nam cũng đã cho hai tàu chiến cơ động BPS-500 do Nga thiết kế lập tức đến hiện trường nhưng phải đứng từ xa vì hỏa lực quá mạnh từ tàu Trung Quốc. Mặc dù báo chí Việt Nam tránh đưa tin sự kiện trên[8] nhưng sau đó Thứ trưởng Ngoại giao Việt Nam Vũ Dũng đã đến Bắc Kinh từ 21/7 tới 23/7 để bàn về các vấn đề biên giới, đặc biệt là trên biển[9].

Việt Nam tuyên bố chủ quyền

Đảo Song Tử Tây, quần đảo Trường Sa (hiện nay thuộc xã Song Tử Tây, huyện Trường Sa, Khánh Hòa)

Việt Nam tuyên bố chủ quyền đối với đảo dựa trên vị trí lịch sử và trên nguyên tắc thềm lục địa. Các bản đồ địa lý cổ Việt Nam ghi chép Bãi Cát Vàng để chỉ cả Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ của Việt Nam từ đầu thế kỷ 17.
Việt Nam đã từng tiến hành nhiều cuộc khảo sát địa lý và tài nguyên trên quần đảo, và kết quả của các chuyến khảo sát đó đã được ghi chép trong văn học và lịch sử Việt Nam và được xuất bản kể từ thế kỷ 17. Hơn nữa, sau một hiệp ước ký kết với triều đại nhà Nguyễn, Pháp đại diện cho các quyền lợi của Việt Nam đối với các công việc quốc tế và đã thi hành chủ quyền trên quần đảo thay cho Việt Nam.
  • Trong bản đồ cổ "Hoàng triều trực tỉnh địa dư toàn đồ" (Toàn bộ bản đồ địa lý của đất nước) do nhà Thanh (Trung Quốc) xuất bản năm 1904, xác định đảo Hải Nam là điểm cực nam lãnh thổ Trung Quốc. Điều đó có nghĩa là các quần đảo ở Biển Đông như Hoàng Sa, Trường Sa nằm ngoài lãnh thổ Trung Quốc. Tấm bản đồ này được lập với khối tư liệu đồ sộ, được nhà vua Trung Quốc trực tiếp chỉ đạo thực hiện. Nó không chỉ tập trung trí tuệ của các nhà khoa học phương Tây mà cả Trung Quốc, cho thấy tính nghiêm túc, chính thống và giá trị khoa học của người Trung Quốc đối với bản đồ hiện đại đầu tiên được in ấn, làm theo thiết kế, kỹ thuật của phương Tây, đặc biệt với tỷ lệ xích rất chính xác.
Ngày 7 tháng 7 năm 1951, Trần Văn Hữu, chủ tịch phái đoàn chính phủ Quốc gia Việt Nam tới dự Hội nghị San Francisco về Hiệp ước Hoà bình với Nhật Bản tuyên bố rằng quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ lâu đã thuộc lãnh thổ Việt Nam. Tuyên bố này không bị bác bỏ hay bảo lưu ý kiến nào của 51 nước có mặt tại hội nghị. Sau khi Pháp rút đi, chính phủ Việt Nam Cộng Hòa đã thi hành chủ quyền trên quần đảo.
Ngày 22 Tháng Tám 1956 Hải quân Việt Nam Cộng hòa tiếp thu đảo Trường Sa, thượng quốc kỳ và dựng trụ đá ghi chủ quyền. Đến ngày 22 Tháng Mười thì chính phủ Việt Nam tuyên bố Trường Sa phụ thuộc tỉnh Phước Tuy.[10]
Ngày 21 tháng 06 năm 2012: Quốc hội Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 3 bỏ phiếu thông qua Luật Biển, gồm 7 chương, 55 điều. Ngay ở Điều 1 luật đã khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. [11]
Hiện nay Việt Nam giữ 21 đảo. Chúng được gộp vào thành một huyện thuộc tỉnh Khánh Hoà.

Philippines tuyên bố chủ quyền

Trong khi Philippines lần đầu tiên tuyên bố chủ quyền với quần đảo Trường Sa tại Đại hội đồng Liên hiệp quốc năm 1946, thì sự dính líu nghiêm túc của họ chỉ diễn ra vào năm 1956 khi vào ngày 15 tháng 5 công dân Philippines là Tomas Cloma tuyên bố lập ra một nhà nước mới, Kalayaan (Vùng đất tự do). Kalayaan của Cloma trải rộng trên toàn bộ phía đông Biển Đông, gồm cả toàn bộ quần đảo Trường Sa, đảo Ba Bình, Pagasa và đảo Nam Yết, cũng như đảo West York, đảo chìm North Danger, đảo chìm Mariveles và bãi cát ngầm Invertigator. Sau đó Cloma lập ra một thuộc địa vào tháng 7 năm 1956 với thủ đô là Pagasa và Cloma là "Chủ tịch hội đồng tối cao của nhà nước Kalayaan". Hành động này dù không được chính phủ Philippines xác nhận, vẫn bị các nước khác coi là một hành động gây hấn của Philippines và sự phản ứng quốc tế nhanh chóng xảy ra. Đài Loan, Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, Việt Nam Cộng Hòa, Pháp, AnhHà Lan đưa ra phản kháng chính thức (Hà Lan có liên quan vì họ coi quần đảo Trường Sa là một phần của New Guinea thuộc Hà Lan) và Đài Loan đã gửi lực lượng hải quân tới chiếm các đảo và lập một căn cứ ở đảo Ba Bình, và họ vẫn giữ tới tận ngày nay.
Tomas Cloma và Philippines tiếp tục tuyên bố chủ quyền của họ đối với quần đảo; tháng 10 năm 1956 Cloma tới Thành phố New York để trình bày sự việc trước Liên hiệp quốc và Philippines đã cho đóng quân trên ba đảo từ năm 1968 để bảo vệ các công dân Kalayaan. Đầu năm 1971 Philippines gửi một lưu ý ngoại giao nhân danh Cloma tới Đài Bắc yêu cầu Cộng hoà Trung Hoa rút quân khỏi đảo Ba Bình và ngày 10 tháng 7 cùng năm Ferdinand Marcos thông báo sự sáp nhập nhóm 53 hòn đảo mà họ gọi là Kalayaan, mặc dù cả Cloma và Marcoss không chỉ rõ 53 đảo nào tạo thành Kalayaan, người Philippines bắt đầu tuyên bố chủ quyền ở càng nhiều nơi càng tốt. Tháng 4 năm 1972 Kalayaan chính thức sáp nhập với tỉnh Palawan và được quản lý như một poblacion (khu vực nhỏ), với Tomas Cloma là chủ tịch hội đồng khu vực và tới năm 1992 có 12 cử tri được đăng ký ở Kalayaan. Philippines cũng liên tục cố gắng đổ quân xuống đảo Ba Bình năm 1977 để chiếm đảo nhưng bị quân đội Cộng hoà Trung Quốc đóng trên đảo đẩy lùi. Không có báo cáo về thương vong trong xung đột. Năm 2005, một trạm điện thoại di động được lắp đặt ở đảo Pagasa bởi Smart Communications của Philippines.
Hải quân Việt Nam duyệt binh trước cột mốc chủ quyền Trường Sa

Người Philippines đưa ra res nullius và địa lý làm cơ sở cho tuyên bố chủ quyền của mình. Cái cho rằng Kalayaan của Philippines là res nullius bởi vì không có nỗ lực giành chủ quyền nào với các đảo cho tới thập niên 1930, khi người Pháp và sau đó là người Nhật chiếm đảo. Khi Nhật Bản tuyên bố rút lui chủ quyền đối với các đảo trong Hiệp ước Hoà bình San Francisco, đã có một sự từ bỏ quyền đối với các đảo mà không có bất kỳ một bên yêu cầu chủ quyền nào. Vì thế, người Philippines cho rằng quần đảo trở thành res nullius và có thể được sáp nhập. Nhà kinh doanh người Philippines Tomas Cloma đã làm đúng điều đó vào năm 1956 và trong khi Philippines không bao giờ chính thức ủng hộ tuyên bố chủ quyền của Cloma, trong lúc chuyển giao chủ quyền đảo từ Cloma sang Philippines, người Philippines sử dụng đúng quyền tuyên bố chủ quyền như Cloma đã từng làm. Philippines yêu cầu Kalayaan về các căn cứ địa lý có thể tóm tắt bằng cách khẳng định rằng Kalayaan là riêng biệt khỏi các nhóm đảo khác ở Biển Đông bởi vì:
"Có sự công nhận chung về thông lệ hải dương học coi một dãy các đảo có tên thuộc về đảo lớn nhất trong nhóm hay có tên dựa theo sự tập hợp chung. Ghi chú rằng Trường Sa (đảo) chỉ có diện tích 13 hectare so với diện tích 22 hectare của đảo Pagasa. Xét về mặt khoảng cách, đảo Trường Sa cách quần đảo Pagasa 210 m. Điều này nhấn mạnh lý lẽ rằng chúng không phải là phần của cùng một dãy đảo. Quần đảo Hoàng Sa còn ở xa hơn (34.5 km tây bắc đảo Pagasa) rõ ràng là một nhóm đảo khác."
Một lý lẽ thứ hai được Philippines sử dụng liên quan tới tuyên bố chủ quyền địa lý của họ đối với Trường Sa là những đảo thuộc phần tuyên bố chủ quyền của Philippines nằm bên trong đường căn bản quần đảo của họ, họ là nước duy nhất có thể tuyên bố như vậy. Hội nghị Liên hiệp quốc về luật biển (UNCLOS) năm 1982 nói rằng các nước bờ biển có thể tuyên bố 200 dặm biển tài phán từ biên giới đất liền của mình. Có thể điều đó có nghĩa rằng trong khi Philippines là một nước đã ký kết vào UNCLOS, Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa và Việt Nam vẫn chưa tham gia. Philippines cũng viện lý lẽ rằng, theo các điều khoản của Luật biển, Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa không thể mở rộng đường căn bản của mình tới Trường Sa bởi vì Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa không phải là nước có biển đảo. Việc lý lẽ này (hay bất kỳ lý lẽ nào khác của người Philippines) có được đưa ra trước toà án để tham khảo và tranh cãi hay không còn chưa chắc chắn, khi Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa và Việt Nam còn chưa muốn chứng minh các yêu cầu chủ quyền của mình theo pháp lý và bác bỏ các nỗ lực của Philippines nhằm đưa sự tranh cãi ra trước Toà án biển thế giớiHamburg.

Trung Quốc tuyên bố chủ quyền

Vào năm 1958, Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa cũng tuyên bố chủ quyền của mình dựa trên vị trí lịch sử. Sau này họ cho rằng quần đảo Trường Sa đã từng là một phần thuộc Trung Quốc trong gần 2.000 năm và đưa ra các thư tịch cổ có nhắc tới quần đảo Trường Sa và những mảnh đồ gốm Trung Quốc và tiền được tìm thấy ở đó để chứng minh. Sử dụng lý lẽ này, Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa đã tuyên bố rằng Philippines đã "lấy" 410.000 km² biên giới biển truyền thống của họ, lợi dụng lúc Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa bị tẩy chay khỏi các công việc quốc tế. Một số nhà phân tích đặt câu hỏi về sự chính xác của các tuyên bố chủ quyền đó, tuy nhiên:
"Sẽ không có tính thuyết phục nếu cho rằng việc tìm thấy các đồng tiền xu thời Hán và các đồ gốm trên quần đảo Hoàng Sa chỉ riêng nó có thể coi là cơ sở chứng minh cho yêu cầu chủ quyền của Trung Quốc vào những năm 1990. Sự hiện diện của những vật đó có thể chỉ đơn giản chứng minh rằng đã có các quan hệ thương mại giữa Trung Quốc và Đông Nam Á hơn là cho thấy sự hiện diện của người Trung Quốc ở quần đảo Trường Sa đang tranh cãi."[cần dẫn nguồn]
Không có ghi chép chính thức nào về việc người Trung Quốc đã tới đảo và các liên hệ tạm thời của ngư dân không đủ để làm bằng chứng cho bất kỳ một yêu cầu chủ quyền nào dựa trên vị trí lịch sử. Tuy nhiên họ trưng ra nhiều ghi chép chính thức và bản đồ từ thời nhà Hán, nhà Nguyên, nhà Thanh và Cộng hoà Trung Hoa có tính đến quần đảo Trường Sa trong lãnh thổ Trung Quốc.
Năm 1958 Thủ tướng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Phạm Văn Đồng gửi Thủ tướng Quốc vụ viện Trung Quốc công hàm ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của chính phủ Trung Quốc quyết định về hải phận của Trung Quốc. Công hàm này cũng đăng trên báo Nhân Dân ngày 22 tháng 9 cùng năm.[12] Theo Bộ Ngoại giao Trung Quốc, sự công nhận này "đương nhiên có giá trị với toàn bộ lãnh thổ Trung Quốc" vì báo Nhân Dân trước đó đã đăng bài chi tiết về bản tuyên bố về lãnh hải của chính phủ Trung Quốc, trong đó nói rằng "kích thước lãnh hải của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là 12 hải lý và điều này được áp dụng cho tất cả các vùng lãnh thổ của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, bao gồm tất cả các quần đảo trên biển Đông"[13]. Theo Bộ ngoại giao Việt Nam, Trung Quốc đã diễn giải công hàm của Phạm Văn Đồng một cách "xuyên tạc", khi nội dung công hàm không đề cập đến Hoàng Sa và Trường Sa, không hề tuyên bố từ bỏ chủ quyền với 2 quần đảo này, mà chỉ công nhận hải phận 12 hải lý (22.2 km) của Trung Quốc[14][15][16][17][18]Tiến sĩ Balazs Szalontai, một nhà nghiên cứu về châu Á, cho rằng công hàm không có sức nặng ràng buộc pháp lý.[19]
Ngoài ra, theo phía Trung Quốc, Thứ trưởng ngoại giao Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Ung Văn Khiêm đã nói rằng: "Theo dữ liệu của Việt Nam, các quần đảo Tây Sa và Nam Sa là phần lãnh thổ mang tính lịch sử của Trung Quốc". Một bài giảng về Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa trong sách giáo khoa chuẩn của Việt Nam phát hành năm 1974 đã ghi rằng các đảo từ quần đảo Nam Sa và Tây Sa đến Hải Nam và Đài Loan tạo thành bức trường thành bảo vệ lục địa Trung Quốc. Nhiều quốc gia trên thế giới như Hoa Kỳ, Liên Xô, Nhật Bản, Anh Quốc, Pháp, Tây Đức, Đông Đức cũng từng phát hành các bản đồ, át-lát địa lý trong đó thể hiện Nam Sa hoặc các quần đảo trên Nam Hải là lãnh thổ Trung Quốc.[13]
Vào tháng 7/2012 ,báo chí Việt Nam đưa ra bằng chứng về chủ quyền của Việt Nam đối với các quần đảo ở Biển Đông đó là tấm bản đồ của Nhà Thanh xuất bản năm 1904 trong đó điểm cực nam của Trung Hoa chỉ dừng lại ở đảo Hải Nam mà không hề có tây sa hay Nam sa mà Trung Quốc đang cố gắng chiếm giữ.[cần dẫn nguồn]