Sự có mặt của con người
Biển Đông
và vùng Đông Nam Á được Matteo Ricci vẽ trong Khôn Dư Vạn Quốc Toàn Đồ in tại
Trung Quốc năm 1602, có ghi dòng chú thích bằng chữ Hán 万里長沙 (Vạn lý Trường Sa).
|
Dấu ấn sớm nhất ghi lại được của con người với quần đảo Trường Sa là từ khoảng năm thứ 3 trước Công nguyên. Điều này dựa trên một số phát hiện rằng những người đánh cá, đa số là cư dân từ Vương quốc Chăm Pa cổ của Việt Nam hoặc cư dân cổ xuất phát từ đảo Hải Nam và các vùng đất nay là các quận ở tỉnh Quảng Đông đã đến quần đảo Trường Sa, và các đảo khác ở vùng Biển Đông để đánh cá hàng năm. Vào thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, thỉnh thoảng có một số thuỷ thủ từ một số nước lớn châu Âu (gồm hoặc Richard Spratly hoặc William Spratly) đến quần đảo Trường Sa, từ đó quần đảo có tên tiếng Anh
là Spratly và tên này được thừa nhận chung, nhưng các nước châu Âu hồi
đó còn ít chú ý đến quần đảo này. Đa số các tên tiếng Anh của các đảo,
đảo nhỏ và đảo chìm được những ngư dân Việt Nam đặt. Các tàu Đức đến nghiên cứu quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa năm 1883 nhưng cuối cùng đã rút lui sau khi có những phản ứng từ phía nhà Nguyễn của Việt Nam.
Các bản đồ địa lý Việt Nam cổ ghi nhận Bãi Cát Vàng (được dùng để chỉ chung cả Hoàng Sa và Trường Sa) là lãnh thổ Việt Nam từ đầu thế kỷ 17. Trong cuốn "Phủ biên tạp lục" của Lê Quý Đôn, Hoàng Sa và Trường Sa được xác định rõ thuộc về tỉnh Quảng Ngãi (dân binh 2 đội Bắc Hải và đội Hoàng Sa đều do đội Hoàng Sa ở xã An Vĩnh huyện Bình Sơn
kiêm quản). Ông miêu tả đó là nơi người ta có thể khai thác các sản
phẩm biển và những đồ vật sót lại từ các vụ đắm tàu. Lê Quý Đôn viết: "Tôi đã từng thấy một đạo công văn của quan chính đường huyện Văn Xương Quỳnh Châu gửi cho Thuận Hóa nói rằng: năm Càn Long thứ 18 (1753), có 10 tên quân nhân xã An Vĩnh tổng Cát Liềm huyện Chương Nghĩa phủ Quảng Ngãi nước An Nam, một ngày tháng 7 đến Vạn Lý Trường Sa
(萬里長沙, tức quần đảo Trường Sa) tìm kiếm các thứ, có 8 tên lên bờ tìm
kiếm, chỉ để 2 tên giữ thuyền, bị gió đứt dây thuyền, giạt vào Thanh Lan
cảng, quan ở đấy xét thực, đưa trả về nguyên quán..."[1][2] (10 người dân binh Việt này là đội Bắc Hải phụ trách các đảo từ xứ Bắc Hải (Đông Bắc Biển Đông), cù lao Côn Lôn, và các đảo ở Hà Tiên.
Đội Hoàng Sa phụ trách chính ở Hoàng Sa). Tài liệu ghi chép Việt Nam
vào thế kỷ 17 nhắc đến các hoạt động kinh tế được tài trợ của chính phủ
dưới triều nhà Lê
từ 200 năm trước đó. Chúa Nguyễn (ở Đàng Trong) và nhà Nguyễn sau đó đã
tiến hành nhiều cuộc nghiên cứu địa lý về các đảo Hoàng Sa và Trường Sa
từ thế kỷ 18 và thế kỷ 19.
Quần đảo
Trường Sa (tức Vạn lý Trường Sa, 萬里長沙) được thể hiện trong Đại Nam nhất thống
toàn đồ (năm 1834-1840).
|
Các bản đồ về địa lý cổ của Trung Quốc có vẽ quần đảo Trường Sa nhưng
không tỏ rõ các đảo là lãnh thổ Trung Quốc. Trong khi ấy, một nhà sư
của đất nước này là Thích Đại Sán (1633 - 1704, hiệu Thạch Liêm, quê ở tỉnh Giang Tây, Trung Quốc, đến Phú Xuân vào năm 1695 theo lời mời của chúa Nguyễn Phúc Chu) đã tỏ hoạt động thực thi chủ quyền của Đại Việt (Việt Nam) đối với quần đảo Trường Sa (và Hoàng Sa) trong tập sách Hải ngoại kỷ sự (quyển 3) của mình. Trích một đoạn sách liên quan:
- "Khách có người bảo: mùa gió xuôi trở về Quảng Đông chừng vào độ nửa tháng trước và sau mùa lập thu. Chừng ấy gió Tây Nam thổi mạnh, chạy một lèo gió xuôi chừng 4, 5 ngày đêm có thể đến Hổ Môn [3] Nếu chờ đến sau mùa nắng, gió bấc dần dần nổi lên, nước chảy về hướng Đông, sức gió Nam yếu, không chống nổi dòng nước chảy mạnh về phía Đông, lúc đó sẽ khó giữ được sự yên ổn. Bởi vì có những cồn cát nằm thẳng dọc biển, chạy từ Đông Bắc qua Tây Nam; đống cao dựng đứng như vách tường, bãi thấp cũng ngang mặt nước biển, mặt cát khô rắn như sắt, rủi thuyền đụng phải hẳn tan tành; bãi cát rộng hàng trăm dặm, chiều dài thăm thẳm chẳng biết bao nhiêu mà kể gọi là Vạn lý Trường Sa, mù tít chẳng có cây nhà cửa. Nếu thuyền bị trái gió, trái nước mà lạc vào, dẫu không tan nát cũng không gạo không nước, trở thành ma đói mà thôi. Quãng ấy cách Đại Việt 7 ngày đường, chừng 700 dặm. Quốc Vương trước, hàng năm sai thuyền đánh cá đi dọc từng bãi cát, lượm vàng bạc, khí cụ của các thuyền hư hỏng dạt vào. Mùa thu nước ròng cạn rút về phía Đông, bị một ngọn sóng đưa đi, thuyền có thể trôi xa hàng trăm dặm; sức gió chẳng mạnh sợ gặp hiểm hoạ Trường Sa".
Cuốn sách Hải ngoại kỷ sự là một tài liệu cổ đáng tin cậy. Nguyên bản in sách này hiện còn được lưu giữ tại Đông Dương Văn khố Nhật Bản và Quốc lập Trung ương đồ thư quán Trung Hoa [4]
Sang thập niên 1930,
Pháp tuyên bố chủ quyền lãnh thổ của Chính phủ Bảo hộ đối với quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa thay cho Việt Nam, lúc đó đang là nước thuộc địa
của Pháp. Họ chiếm đóng một số đảo thuộc Trường Sa, gồm cả đảo Ba Bình, và xây các trạm khí tượng trên hai đảo, và sau đó quản lý chúng như một phần lãnh thổ của Đông Dương thuộc Pháp. Sự chiếm đóng này bị chính phủ quốc gia Trung Quốc phản đối bởi vì theo họ thì khi các tàu chiến của Pháp tới chín đảo thì trên biển có một số ngư dân gốc Trung Quốc đánh cá, theo họ thì các ngư dân này đã xé cờ Pháp sau khi tàu của Pháp rời khỏi đảo. Sau đó, Nhật Bản chiếm một số đảo trong Thế chiến thứ hai, và sử dụng các đảo này làm căn cứ tàu ngầm cho các chiến dịch ở Đông Nam Á. Dưới thời đó, những đảo này được gọi là Shinnan Shoto (新南諸島 - âm Hán Việt:
Tân Nam chư đảo, nghĩa là "nhóm đảo mới phía Nam"), cùng với quần đảo
Hoàng Sa được đặt dưới sự cai trị của Chính quyền Nhật tại Đài Loan. Sau khi Nhật Bản bị đánh bại, Quốc Dân Đảng
tuyên bố chủ quyền toàn bộ quần đảo Trường Sa (gồm cả đảo Ba Bình) và
chấp nhận sự đầu hàng của người Nhật. Nhật Bản rút bỏ tất cả các tuyên
bố chủ quyền đối với các đảo vào năm 1951 theo Hiệp ước Hoà bình San Francisco. Trong hiệp ước với Trung Hoa Dân quốc, Nhật một lần nữa rút bỏ chủ quyền khỏi các đảo cùng với Hoàng Sa, Đông Sa (Pratas) và các đảo đã chiếm của Trung Quốc. Tuy nhiên, Quốc Dân Đảng đã rút khỏi Trường Sa và Hoàng Sa khi họ bị các lực lượng của Đảng Cộng sản Trung Quốc đối lập đánh bại năm 1949.
Tháng 4 năm 1950 Pháp trao lại quyền quản lý quần đảo Trường Sa (và Hoàng Sa) cho chính phủ Quốc gia Việt Nam thời quốc trưởng Bảo Đại nhưng việc đồn trú vẫn do quân đội Pháp đảm nhiệm, và khi người Pháp rời khỏi Việt Nam sau Hiệp định Genève, 1954, quyền kiểm soát thuộc về quân đội Quốc gia Việt Nam và kế tiếp là quân đội Việt Nam Cộng hòa thực hiện chủ quyền đóng giữ Trường Sa. Sau khi Việt Nam thống nhất năm 1975, các lực lượng hải quân của Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã tiếp quản từ quân đội Việt Nam Cộng hòa cho đến nay
Tranh chấp chủ quyền
Dấu hiệu đầu tiên cho thấy quần đảo Trường Sa không chỉ đơn giản là một mối nguy cho tàu chở hàng đi qua đó là khi vào năm 1968
người ta tìm thấy dầu mỏ trong vùng. Theo ước tính của Bộ Địa chất và
Tài nguyên Khoáng sản Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa vùng quần đảo Trường
Sa có chứa trữ lượng dầu và khí đốt tự nhiên rất lớn, lên đến 17,7 tỷ tấn (1,60 × 1010 kg), so với 13 tỷ tấn (1,17 × 1010 kg) của Kuwait, và họ xếp nó vào danh sách một trong bốn vùng có trữ lượng dầu khí lớn nhất thế giới.
Đương nhiên, tiềm năng trữ lượng dầu khí to lớn này góp phần làm tình
hình thêm căng thẳng và thúc đẩy các nước trong vùng tuyên bố có chủ
quyền. Ngày 11 tháng 3 năm 1976, cuộc thám hiểm dầu khí lớn đầu tiên của Philippines được tiến hành ngoài khơi Palawan,
trong khu vực quần đảo Trường Sa, và các khu khai thác ở đó hiện chiếm
năm mươi phần trăm toàn bộ số dầu tiêu thụ tại Philippines.
Các nước tuyên bố chủ quyền không cấp giấy phép khai thác ngoài khơi
trong vùng đảo vì sợ gây ra một sự xung đột lập tức. Các công ty nước
ngoài cũng không đưa ra bất kỳ một cam kết nào về việc khai thác vùng
này cho đến khi tranh cãi về lãnh thổ được giải quyết hay các nước tham gia đạt được thoả thuận chung.
Một động cơ khác để tranh chấp là trữ lượng khai thác cá thương mại của vùng biển quần đảo Trường Sa. Vào năm 1988,
Biển Đông chiếm 8% tổng số lượng đánh bắt cá và hải sản của thế giới,
một con số chắc chắn còn có thể tăng lên. Trung Quốc đã dự đoán rằng
Biển Đông chứa lượng cá và các nguồn dầu mỏ, khí gas tự nhiên có giá trị
lên đến một nghìn tỷ đôla.
Đã có nhiều cuộc xung đột xảy ra giữa Philippines và các nước khác -
đặc biệt là Trung Quốc - về những tàu đánh cá nước ngoài trong Vùng đặc quyền kinh tế của họ và báo chí cũng thường đưa tin về những vụ bắt giữ ngư dân Trung Quốc.
Vùng này cũng là một trong những vùng có mật độ hàng hải đông đúc nhất trên thế giới. Trong thập niên 1980, mỗi ngày có ít nhất 270 lượt tàu đi qua quần đảo Trường Sa, và hiện tại hơn một nửa số tàu chở dầu siêu cấp của thế giới chạy qua vùng biển này hàng năm. Lượng tàu chở dầu chạy qua Biển Đông lớn gấp ba lần lượng tàu chạy qua kênh Suez và gấp năm lần lượng tàu qua Kênh đào Panama; gần 20% lượng dầu thô trên thế giới được chuyên chở ngang qua Biển Đông.
Có nhiều ám chỉ rằng Trung Quốc đã sáp nhập và chiếm các đảo không
phải chỉ vì mục tiêu khai thác tài nguyên mà còn để giám sát các hoạt
động trên biển Đông. Ví dụ, đá Vành Khăn là một điểm lý tưởng để quan sát các tàu của Hải quân Mỹ
chạy qua vùng biển phía tây Philippines. Việc Trung Quốc chiếm đảo này
cũng có thể có mục đích đối chọi với Đài Loan hơn là với Philippines bởi
vì Trường Sa nằm ngang vùng biển thiết yếu của Đài Loan. Đó cũng có thể
chỉ đơn giản là một nỗ lực của Trung Quốc nhằm thông báo sự củng cố
quyền bá chủ trong vùng của họ.
Một xô xát diễn ra liên quan tới một tàu dân sự vào ngày 10 tháng 4 năm 1983, khi một du thuyền của Đức bị bắn chìm. Không ai bị coi là chịu trách nhiệm về vụ này.
Để trả lời cho những lo ngại ngày càng tăng bởi các nước có bờ biển ở
vùng biển quần đảo Trường Sa về sự xâm phạm của các tàu nước ngoài đối
với tài nguyên thiên nhiên của họ, Liên hiệp quốc đã họp và ra Công ước Quốc tế về luật biển (UNCLOS) năm 1982 để xác định các vấn đề về các biên giới biển quốc tế. Về những lo lắng trên, chúng được giải quyết rằng một nước có đường bờ biển có thể tuyên bố 200 dặm hàng hải quyền tài phán từ biên giới đất liền của mình. Tuy nhiên UNCLOS không thể giải quyết vấn đề làm thế nào để giải quyết các tranh chấp chồng lấn và vì thế tương lai của quần đảo vẫn còn mờ mịt.
Năm 1984, Brunei lập ra một vùng đặc quyền đánh cá bao gồm cả đảo ngầm Louisa ở phía nam quần đảo Trường Sa, nhưng không công khai tuyên bố chủ quyền hòn đảo. Sau đó, vào năm 1988, Việt Nam và Trung Quốc một lần nữa lại đụng độ ở biển về quyền sở hữu đảo ngầm Johnson
thuộc Trường Sa. Tàu chiến Trung Quốc đánh đắm các tàu chở đội quân đổ
bộ Việt Nam. Hai nước bình thường hoá quan hệ vào năm 1991 và Chủ tịch Giang Trạch Dân sau đó đã hai lần viếng thăm Việt Nam, nhưng hai nước vẫn đối đầu về tương lai của Trường Sa.
Năm 1992,
Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa và Việt Nam trao các hợp đồng thăm dò dầu
khí cho các công ty Mỹ trên vùng chồng lấn ở Trường Sa; và vào tháng 5
năm 1992, Công ty dầu khí ngoài khơi quốc gia Trung Quốc (CNOOC) và
Crestone Energy (một công ty Mỹ có trụ sở ở Denver, Colorado) đã ký một hợp đồng hợp tác để cùng thăm dò lô Wan'an Bei-21,
một vùng rộng 25.155 km² ở phía tây nam Biển Đông gồm cả các vùng quần
đảo Trường Sa. CNOOC cung cấp các dữ liệu về địa chất và các thông tin
khác về đáy biển vùng đó trong khi Crestone đồng ý chịu mọi chi phí và
tiếp tục tiến hành thăm dò địa chất và khoan trong vùng. Hợp đồng được
kéo dài tới năm 1999 sau khi Crestone thất bại trong việc hoàn thành
thăm dò. Một phần trong hợp đồng của Crestone bao gồm cả hai block 133
và 134 của Việt Nam nơi Petro Vietnam
và ConocoPhillips Vietnam Exploration & Production, một đơn vị của
ConocoPhillips, đã đồng ý đánh giá khả năng vào tháng 4 năm 1992. Điều
này dẫn tới một sự chạm trán giữa Trung Quốc và Việt Nam, với việc mỗi
nước đều yêu cầu rằng bên kia huỷ bỏ hợp đồng của mình. Xung đột cấp độ
cao hơn nữa diễn ra đầu năm 1995
khi Philippines tìm thấy một kết cấu quân sự đầu tiên ở đảo ngầm
Mischief, 130 dặm biển ngoài khơi Palawan. Việc này thúc đẩy chính phủ
Philippines đưa ra một kháng cáo chính thức đối với sự chiếm đóng hòn
đảo của Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa và Hải quân Philippines bắt giữ sáu
mươi hai ngư dân Trung Quốc ở bãi Trăng Khuyết, cách Palawan 80 kilômét. Một tuần sau, sau sự xác nhận của Fidel Ramos
về việc ra lệnh tăng cường cho các lực lượng quân sự trong vùng, Cộng
hoà Nhân dân Trung Hoa tuyên bố rằng kết cấu đó là các chòi tạm dành cho
ngư dân.
Tiếp theo sự tranh cãi đó, Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa và các nước thành viên ASEAN,
với sự môi giới của ASEAN, đã đạt được một thoả thuận rằng một nước sẽ
thông báo tới các nước còn lại về hành động quân sự của mình bên trong
vùng lãnh thổ tranh chấp và sẽ không tiến hành xây dựng thêm các công
trình. Thoả thuận nhanh chóng bị Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa và Malaysia xâm phạm. Tuyên bố rằng vì bị hư hại do bão, bảy tàu Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa tiến vào vùng đó để sửa "các chòi ngư dân" ở đảo ngầm Panganiban. Malaysia xây dựng một kết cấu trên bãi Thám Hiểm và đổ bộ tại đảo ngầm Rizal,
cả hai chỗ này đều nằm bên trong vùng EEZ của Philippines. Để trả đũa
Philippines trao phản đối chính thức, yêu cầu dỡ bỏ các kết cấu đó, tăng
cường tuần tra hải quân ở Kalayaan và mời các nhà chính trị Mỹ tới giám sát các căn cứ của Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa bằng máy bay.
Tới năm 1998, Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa tiếp tục sự sáp nhập các đảo của mình, đặt các cột mốc lãnh thổ hay phao trên bãi Suối Ngà và thứ hai, bãi cát Pennsylvania, bãi Trăng Khuyết và đảo san hô vòng Sabina cùng đảo Jackson, vùng quần đảo Trường Sa được đưa vào danh sách một trong tám điểm nóng xung đột trên thế giới. Cuối năm 1998, các căn cứ của Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa đã bao quanh các tiền đồn của Philippines. Một sỹ quan Hải quân hoàng gia Anh
phân tích các bức ảnh chụp các kết cấu của Trung Quốc và tuyên bố rằng
Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa "có lẽ đang chuẩn bị chiến tranh". Quan hệ
giữa Manila và Bắc Kinh đã xấu đi tới mức sắp xảy tới xung đột.
Đầu thế kỷ 21,
như một phần trong chính sách ngoại giao lúc đầu được gọi là "khái niệm
an ninh mới" và "sự lớn mạnh của Trung Quốc hoà bình", Cộng hoà Nhân
dân Trung Hoa giảm bớt chạm trán ở quần đảo Trường Sa. Gần đây Cộng hoà
Nhân dân Trung Hoa tiến hành thương lượng với các nước ASEAN nhằm mục đích thực hiện đề xuất tự do thương mại giữa 10 nước tham gia. Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa và ASEAN cũng đã thoả thuận đàm phán để đưa ra một bộ luật ứng xử nhằm giảm căng thẳng tại các đảo tranh chấp. Ngày 5 tháng 3 năm 2002,
một thoả thuận đã ra đời, công bố mong ước của các nước liên quan giải
quyết vấn đề chủ quyền "mà không sử dụng thêm nữa vũ lực". Tháng 11 năm
2002, một tuyên bố về ứng xử của các bên tại Biển Đông được ký kết, làm
giảm căng thẳng nhưng không phải là một bộ luật ứng xử mang tính bắt
buộc.
Bản đồ Biển
Đông do người Hà Lan vẽ vào năm 1754 ghi nhận quần đảo Hoàng Sa dưới tên De
Paracelles. (Trong giới hạn quần đảo De Paracelles, có 2 nhóm đảo, nhóm đảo
phía nam tách rời (không được ghi chú) có hình dạng và vị trí tương đối giống
với nhóm đảo Vạn lý Trường Sa (萬里長沙) của Đại Nam nhất thống toàn đồ).
|
Vào năm 2007, Việt Nam và hãng BP của Anh đang chuẩn bị thực hiện dự
án trị giá hai tỷ đôla lắp đặt đường ống dẫn khí đốt thiên nhiên từ hai
mỏ khí ở khu vực quần đảo Trường Sa thuộc vùng chủ quyền của Việt Nam
đồng thời tổ chức bầu cử Quốc hội Việt Nam khóa XII sẽ được tiến hành
ngày 20/5 tại quần đảo Trường Sa thì người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung
Quốc Lão Tần Cương nói trong buổi họp báo thường kỳ "Việt Nam áp dụng
hàng loạt hành động mới trên quần đảo Nam Sa đã đi ngược với nhận thức
chung quan trọng về các vấn đề trên biển" mà hai bên đã đạt được. Người
phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Tần Cương
gọi đây là hành động "xâm phạm chủ quyền lãnh thổ cũng như chủ quyền và
quyền cai quản của Trung Quốc và Trung Quốc bày tỏ hết sức quan tâm
việc này và đã giao thiệp nghiêm khắc với Việt Nam" trong lúc Chủ tịch
Quốc hội Việt Nam Nguyễn Phú Trọng
đang có chuyến thăm chính thức nước này. Trong khi phía Trung Quốc lại
cho các công ty dầu khí, mà điển hình là PetroChina, thăm dò và khai
thác dầu khí trong khu vực tranh chấp[5].
Sau đó vào tháng 6 năm 2007 phát ngôn nhân của BP Plc, ông David
Nicholas, nói rằng hãng này thấy rằng "nên ngừng kế hoạch khảo sát địa
chấn tại lô 5.2 để cho các nước liên quan có cơ hội giải quyết vấn đề".
Khu thăm dò địa chấn, lô 5.2, mà BP dự định tiến hành nằm ở giữa Việt
Nam và quần đảo Trường Sa, cách bờ biển Việt Nam khoảng 370 km. Tuy
nhiên người phát ngôn của BP lại nói với Reuters rằng công việc tại các lô 5.2 và 5.3 là kế hoạch lâu dài chứ không phải trước mắt[6].
Trung Quốc ngày càng gây hấn bằng vũ lực trên quần đảo Trường Sa. Vào
tháng 4 năm 2007 Trung Quốc đã bắt 41 ngư dân Việt Nam và chỉ trả tự do
cho họ sau khi những người này nộp phạt. Đến ngày 9 tháng 7 tàu Hải
quân Trung Quốc đã nã súng vào một số thuyền đánh cá của ngư dân Việt
Nam trong vùng biển gần Trường Sa, cách Thành phố Hồ Chí Minh 350 km làm
chìm một thuyền đánh cá của Việt Nam, ít nhất một ngư dân thiệt mạng và
một số người khác bị thương. Nguyên nhân chính dẫn tới các mâu thuẫn
gữa hai nước là trữ lượng trên 600 triệu thùng của Việt Nam mà Trung
Quốc tuyên bố nằm trong vùng biển chủ quyền trong khi giá dầu thô có thể
tăng lên đến 100 USD vào cuối năm 2007[7].
Phía Việt Nam cũng đã cho hai tàu chiến cơ động BPS-500 do Nga thiết kế
lập tức đến hiện trường nhưng phải đứng từ xa vì hỏa lực quá mạnh từ
tàu Trung Quốc. Mặc dù báo chí Việt Nam tránh đưa tin sự kiện trên[8] nhưng sau đó Thứ trưởng Ngoại giao Việt Nam Vũ Dũng đã đến Bắc Kinh từ 21/7 tới 23/7 để bàn về các vấn đề biên giới, đặc biệt là trên biển[9].
Việt Nam tuyên bố chủ quyền
Đảo Song Tử
Tây, quần đảo Trường Sa (hiện nay thuộc xã Song Tử Tây, huyện Trường Sa, Khánh
Hòa)
|
Việt Nam tuyên bố chủ quyền đối với đảo dựa trên vị trí lịch sử và
trên nguyên tắc thềm lục địa. Các bản đồ địa lý cổ Việt Nam ghi chép Bãi
Cát Vàng để chỉ cả Hoàng Sa và Trường Sa là lãnh thổ của Việt Nam từ đầu thế kỷ 17.
- Trong cuốn Phủ Biên Tạp Lục của học giả Lê Quý Đôn, Hoàng Sa và Trường Sa được định nghĩa thuộc tỉnh Quảng Ngãi.
- Trong bộ quốc sử Đại Nam thực lục của triều Nguyễn có ghi chép từ năm 1711 chúa Nguyễn Phúc Chu cho người ra đo độ dài ngắn rộng hẹp bãi cát Trường Sa
- Trong Đại Nam nhất thống toàn đồ, một cuốn bản đồ của Việt Nam được hoàn thành năm 1838, Trường Sa được vẽ thuộc lãnh thổ Việt Nam.
Việt Nam đã từng tiến hành nhiều cuộc khảo sát địa lý và tài nguyên
trên quần đảo, và kết quả của các chuyến khảo sát đó đã được ghi chép
trong văn học và lịch sử Việt Nam và được xuất bản kể từ thế kỷ 17. Hơn
nữa, sau một hiệp ước ký kết với triều đại nhà Nguyễn, Pháp đại diện cho các quyền lợi của Việt Nam đối với các công việc quốc tế và đã thi hành chủ quyền trên quần đảo thay cho Việt Nam.
- Trong bản đồ cổ "Hoàng triều trực tỉnh địa dư toàn đồ" (Toàn bộ bản đồ địa lý của đất nước) do nhà Thanh (Trung Quốc) xuất bản năm 1904, xác định đảo Hải Nam là điểm cực nam lãnh thổ Trung Quốc. Điều đó có nghĩa là các quần đảo ở Biển Đông như Hoàng Sa, Trường Sa nằm ngoài lãnh thổ Trung Quốc. Tấm bản đồ này được lập với khối tư liệu đồ sộ, được nhà vua Trung Quốc trực tiếp chỉ đạo thực hiện. Nó không chỉ tập trung trí tuệ của các nhà khoa học phương Tây mà cả Trung Quốc, cho thấy tính nghiêm túc, chính thống và giá trị khoa học của người Trung Quốc đối với bản đồ hiện đại đầu tiên được in ấn, làm theo thiết kế, kỹ thuật của phương Tây, đặc biệt với tỷ lệ xích rất chính xác.
Ngày 7 tháng 7 năm 1951, Trần Văn Hữu, chủ tịch phái đoàn chính phủ Quốc gia Việt Nam
tới dự Hội nghị San Francisco về Hiệp ước Hoà bình với Nhật Bản tuyên
bố rằng quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa từ lâu đã thuộc lãnh thổ Việt
Nam. Tuyên bố này không bị bác bỏ hay bảo lưu ý kiến nào của 51 nước có
mặt tại hội nghị. Sau khi Pháp rút đi, chính phủ Việt Nam Cộng Hòa đã
thi hành chủ quyền trên quần đảo.
Ngày 22 Tháng Tám 1956 Hải quân Việt Nam Cộng hòa tiếp thu đảo Trường Sa, thượng quốc kỳ và dựng trụ đá ghi chủ quyền. Đến ngày 22 Tháng Mười thì chính phủ Việt Nam tuyên bố Trường Sa phụ thuộc tỉnh Phước Tuy.[10]
Ngày 21 tháng 06 năm 2012: Quốc hội Việt Nam
khóa XIII, kỳ họp thứ 3 bỏ phiếu thông qua Luật Biển, gồm 7 chương, 55
điều. Ngay ở Điều 1 luật đã khẳng định chủ quyền của Việt Nam đối với
hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. [11]
Hiện nay Việt Nam giữ 21 đảo. Chúng được gộp vào thành một huyện thuộc tỉnh Khánh Hoà.
Philippines tuyên bố chủ quyền
Trong khi Philippines lần đầu tiên tuyên bố chủ quyền với quần đảo Trường Sa tại Đại hội đồng Liên hiệp quốc năm 1946, thì sự dính líu nghiêm túc của họ chỉ diễn ra vào năm 1956 khi vào ngày 15 tháng 5 công dân Philippines là Tomas Cloma tuyên bố lập ra một nhà nước mới, Kalayaan
(Vùng đất tự do). Kalayaan của Cloma trải rộng trên toàn bộ phía đông
Biển Đông, gồm cả toàn bộ quần đảo Trường Sa, đảo Ba Bình, Pagasa và đảo
Nam Yết, cũng như đảo West York, đảo chìm North Danger, đảo chìm
Mariveles và bãi cát ngầm Invertigator. Sau đó Cloma lập ra một thuộc
địa vào tháng 7 năm 1956 với thủ đô là Pagasa và Cloma là "Chủ tịch hội
đồng tối cao của nhà nước Kalayaan". Hành động này dù không được chính
phủ Philippines xác nhận, vẫn bị các nước khác coi là một hành động gây
hấn của Philippines và sự phản ứng quốc tế nhanh chóng xảy ra. Đài Loan, Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, Việt Nam Cộng Hòa, Pháp, Anh và Hà Lan đưa ra phản kháng chính thức (Hà Lan có liên quan vì họ coi quần đảo Trường Sa là một phần của New Guinea
thuộc Hà Lan) và Đài Loan đã gửi lực lượng hải quân tới chiếm các đảo
và lập một căn cứ ở đảo Ba Bình, và họ vẫn giữ tới tận ngày nay.
Tomas Cloma và Philippines tiếp tục tuyên bố chủ quyền của họ đối với quần đảo; tháng 10 năm 1956 Cloma tới Thành phố New York để trình bày sự việc trước Liên hiệp quốc và Philippines đã cho đóng quân trên ba đảo từ năm 1968 để bảo vệ các công dân Kalayaan. Đầu năm 1971 Philippines gửi một lưu ý ngoại giao nhân danh Cloma tới Đài Bắc yêu cầu Cộng hoà Trung Hoa rút quân khỏi đảo Ba Bình và ngày 10 tháng 7 cùng năm Ferdinand Marcos
thông báo sự sáp nhập nhóm 53 hòn đảo mà họ gọi là Kalayaan, mặc dù cả
Cloma và Marcoss không chỉ rõ 53 đảo nào tạo thành Kalayaan, người
Philippines bắt đầu tuyên bố chủ quyền ở càng nhiều nơi càng tốt. Tháng 4
năm 1972 Kalayaan chính thức sáp nhập với tỉnh Palawan và được quản lý như một poblacion (khu vực nhỏ), với Tomas Cloma là chủ tịch hội đồng khu vực và tới năm 1992 có 12 cử tri được đăng ký ở Kalayaan. Philippines cũng liên tục cố gắng đổ quân xuống đảo Ba Bình năm 1977 để chiếm đảo nhưng bị quân đội Cộng hoà Trung Quốc đóng trên đảo đẩy lùi. Không có báo cáo về thương vong trong xung đột. Năm 2005, một trạm điện thoại di động được lắp đặt ở đảo Pagasa bởi Smart Communications của Philippines.
Hải quân
Việt Nam
duyệt binh trước cột mốc chủ quyền Trường Sa
|
Người Philippines đưa ra res nullius và địa lý làm cơ sở cho tuyên bố chủ quyền của mình. Cái cho rằng Kalayaan của Philippines là res nullius bởi vì không có nỗ lực giành chủ quyền nào với các đảo cho tới thập niên 1930,
khi người Pháp và sau đó là người Nhật chiếm đảo. Khi Nhật Bản tuyên bố
rút lui chủ quyền đối với các đảo trong Hiệp ước Hoà bình San
Francisco, đã có một sự từ bỏ quyền đối với các đảo mà không có bất kỳ
một bên yêu cầu chủ quyền nào. Vì thế, người Philippines cho rằng quần
đảo trở thành res nullius và có thể được sáp nhập. Nhà kinh doanh
người Philippines Tomas Cloma đã làm đúng điều đó vào năm 1956 và trong
khi Philippines không bao giờ chính thức ủng hộ tuyên bố chủ quyền của
Cloma, trong lúc chuyển giao chủ quyền đảo từ Cloma sang Philippines,
người Philippines sử dụng đúng quyền tuyên bố chủ quyền như Cloma đã
từng làm. Philippines yêu cầu Kalayaan về các căn cứ địa lý có thể tóm
tắt bằng cách khẳng định rằng Kalayaan là riêng biệt khỏi các nhóm đảo
khác ở Biển Đông bởi vì:
-
- "Có sự công nhận chung về thông lệ hải dương học coi một dãy các đảo có tên thuộc về đảo lớn nhất trong nhóm hay có tên dựa theo sự tập hợp chung. Ghi chú rằng Trường Sa (đảo) chỉ có diện tích 13 hectare so với diện tích 22 hectare của đảo Pagasa. Xét về mặt khoảng cách, đảo Trường Sa cách quần đảo Pagasa 210 m. Điều này nhấn mạnh lý lẽ rằng chúng không phải là phần của cùng một dãy đảo. Quần đảo Hoàng Sa còn ở xa hơn (34.5 km tây bắc đảo Pagasa) rõ ràng là một nhóm đảo khác."
Một lý lẽ thứ hai được Philippines sử dụng liên quan tới tuyên bố chủ
quyền địa lý của họ đối với Trường Sa là những đảo thuộc phần tuyên bố
chủ quyền của Philippines nằm bên trong đường căn bản quần đảo của họ,
họ là nước duy nhất có thể tuyên bố như vậy. Hội nghị Liên hiệp quốc về
luật biển (UNCLOS) năm 1982 nói rằng các nước bờ biển có thể tuyên bố
200 dặm biển tài phán từ biên giới đất liền của mình. Có thể điều đó có
nghĩa rằng trong khi Philippines là một nước đã ký kết vào UNCLOS, Cộng
hoà Nhân dân Trung Hoa và Việt Nam vẫn chưa tham gia. Philippines cũng
viện lý lẽ rằng, theo các điều khoản của Luật biển, Cộng hoà Nhân dân
Trung Hoa không thể mở rộng đường căn bản
của mình tới Trường Sa bởi vì Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa không phải là
nước có biển đảo. Việc lý lẽ này (hay bất kỳ lý lẽ nào khác của người
Philippines) có được đưa ra trước toà án để tham khảo và tranh cãi hay
không còn chưa chắc chắn, khi Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa và Việt Nam
còn chưa muốn chứng minh các yêu cầu chủ quyền của mình theo pháp lý và
bác bỏ các nỗ lực của Philippines nhằm đưa sự tranh cãi ra trước Toà án biển thế giới ở Hamburg.
Trung Quốc tuyên bố chủ quyền
Vào năm 1958, Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa cũng tuyên bố chủ quyền của
mình dựa trên vị trí lịch sử. Sau này họ cho rằng quần đảo Trường Sa đã
từng là một phần thuộc Trung Quốc trong gần 2.000 năm và đưa ra các thư
tịch cổ có nhắc tới quần đảo Trường Sa và những mảnh đồ gốm Trung Quốc
và tiền được tìm thấy ở đó để chứng minh. Sử dụng lý lẽ này, Cộng hoà
Nhân dân Trung Hoa đã tuyên bố rằng Philippines đã "lấy" 410.000 km²
biên giới biển truyền thống của họ, lợi dụng lúc Cộng hoà Nhân dân Trung
Hoa bị tẩy chay khỏi các công việc quốc tế. Một số nhà phân tích đặt
câu hỏi về sự chính xác của các tuyên bố chủ quyền đó, tuy nhiên:
-
- "Sẽ không có tính thuyết phục nếu cho rằng việc tìm thấy các đồng tiền xu thời Hán và các đồ gốm trên quần đảo Hoàng Sa chỉ riêng nó có thể coi là cơ sở chứng minh cho yêu cầu chủ quyền của Trung Quốc vào những năm 1990. Sự hiện diện của những vật đó có thể chỉ đơn giản chứng minh rằng đã có các quan hệ thương mại giữa Trung Quốc và Đông Nam Á hơn là cho thấy sự hiện diện của người Trung Quốc ở quần đảo Trường Sa đang tranh cãi."[cần dẫn nguồn]
Không có ghi chép chính thức nào về việc người Trung Quốc đã tới đảo
và các liên hệ tạm thời của ngư dân không đủ để làm bằng chứng cho bất
kỳ một yêu cầu chủ quyền nào dựa trên vị trí lịch sử. Tuy nhiên họ trưng
ra nhiều ghi chép chính thức và bản đồ từ thời nhà Hán, nhà Nguyên, nhà Thanh và Cộng hoà Trung Hoa có tính đến quần đảo Trường Sa trong lãnh thổ Trung Quốc.
Năm 1958 Thủ tướng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Phạm Văn Đồng gửi Thủ tướng Quốc vụ viện Trung Quốc công hàm ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của chính phủ Trung Quốc quyết định về hải phận của Trung Quốc. Công hàm này cũng đăng trên báo Nhân Dân ngày 22 tháng 9 cùng năm.[12]
Theo Bộ Ngoại giao Trung Quốc, sự công nhận này "đương nhiên có giá trị
với toàn bộ lãnh thổ Trung Quốc" vì báo Nhân Dân trước đó đã đăng bài
chi tiết về bản tuyên bố về lãnh hải của chính phủ Trung Quốc, trong đó
nói rằng "kích thước lãnh hải của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là 12
hải lý và điều này được áp dụng cho tất cả các vùng lãnh thổ của Cộng
hòa Nhân dân Trung Hoa, bao gồm tất cả các quần đảo trên biển Đông"[13].
Theo Bộ ngoại giao Việt Nam, Trung Quốc đã diễn giải công hàm của Phạm
Văn Đồng một cách "xuyên tạc", khi nội dung công hàm không đề cập đến
Hoàng Sa và Trường Sa, không hề tuyên bố từ bỏ chủ quyền với 2 quần đảo
này, mà chỉ công nhận hải phận 12 hải lý (22.2 km) của Trung Quốc[14][15][16][17][18]Tiến sĩ Balazs Szalontai, một nhà nghiên cứu về châu Á, cho rằng công hàm không có sức nặng ràng buộc pháp lý.[19]
Ngoài ra, theo phía Trung Quốc, Thứ trưởng ngoại giao Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa Ung Văn Khiêm đã nói rằng: "Theo dữ liệu của Việt Nam, các
quần đảo Tây Sa và Nam Sa là phần lãnh thổ mang tính lịch sử của Trung
Quốc". Một bài giảng về Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa trong sách giáo khoa
chuẩn của Việt Nam phát hành năm 1974 đã ghi rằng các đảo từ quần đảo
Nam Sa và Tây Sa đến Hải Nam và Đài Loan tạo thành bức trường thành bảo
vệ lục địa Trung Quốc. Nhiều quốc gia trên thế giới như Hoa Kỳ, Liên Xô, Nhật Bản, Anh Quốc, Pháp, Tây Đức, Đông Đức cũng từng phát hành các bản đồ, át-lát địa lý trong đó thể hiện Nam Sa hoặc các quần đảo trên Nam Hải là lãnh thổ Trung Quốc.[13]
Vào tháng 7/2012 ,báo chí Việt Nam đưa ra bằng chứng về chủ quyền của
Việt Nam đối với các quần đảo ở Biển Đông đó là tấm bản đồ của Nhà
Thanh xuất bản năm 1904 trong đó điểm cực nam của Trung Hoa chỉ dừng lại
ở đảo Hải Nam mà không hề có tây sa hay Nam sa mà Trung Quốc đang cố
gắng chiếm giữ.[cần dẫn nguồn]
Nhận xét này đã bị tác giả xóa.
Trả lờiXóaCám ơn HT, một tư liệu quý giá. Mình sẽ copy lại để đọc từ từ, vì các sự kiện quân sự, quan hệ quốc tế, cùng với các mốc thời gian, diễn ra khá dồn dập, nên theo dõi khá vất vả
Trả lờiXóa