![]() | |
Cô gái hàng hoa... |
Những ngày này bỗng nhớ mẹ…Vì mình cũng đi một chặng đường gần như lúc mẹ buông tất cả để nghỉ ngơi cùng chồng con. Vì cũng tới tuổi hay ngoái lại hoài cổ như mẹ...
Mẹ
sinh ra giữa một làng hoa cổ, có từ thời Lý. Trong gia phả ghi lại, thế
kỷ 17 cụ tổ vâng lệnh vua đi từ Thanh Hóa ra kinh thành Thăng Long để
nhậm chức quan gì đó không rõ vì gia phả cũ đã mất thời tao loạn. Thủa
chân ướt chân ráo tới kinh thành, cụ tổ lập nghiệp ở Nhân Chính. Về sau
dời đến Nam Đồng. Tới Khán Xuân thì đã được truyền đến 9 đời. Cuối
thế kỷ 19, người Pháp lấy khu đất trang trại của cụ huyện và cả làng
Khán Xuân (Bách Thảo bây giờ) để xây Phủ Toàn quyền nên cụ đành đem cả
đại gia đình vào làng Ngọc Hà lập nghịêp. Cụ vừa làm quan, vừa sống bằng
nghề trồng hoa, phát canh thu tô. Có đất, có nghề nên gia đình cụ gần
như sống theo kiểu tự cung tự cấp. Thóc gạo nhận từ nông dân cấy rẽ. Tự
trồng rau, trồng chè, vối để dùng quanh năm. Đàn bà, con gái dù là con
nhà giàu nhưng vẫn phải lao động cùng gia nhân như hái hoa, trồng rau,
tự may vá quần áo mặc…Tức là quá nửa đêm dậy hái hoa để sáng ra đưa đi
bán ở quầy hàng cạnh Bờ Hồ. Ngày trước ông ngoại có một bác người làm
cắm hoa đẹp nổi tiếng. Nếu người khác cắm thì các madam Pháp chỉ trả 5
xu, riêng bác thì họ trả đến 5 đồng. Mẹ theo bác này học cắm hoa nên
hàng ngày sau giờ học hay lên quầy bán hoa trên phố Tràng Tiền giúp
việc.
![]() |
Cột cờ vẫn không mấy thay đổi |
Ngọc
Hà, quê ngoại của mình đấy. Theo sử sách ghi lại thì vìng đất này có cư
dân từ thời các vua Hùng. Người ta đã đào được di chỉ như rìu đá ở Quần
Ngựa, rìu đồng ở Cống Vị. Còn nghề trồng hoa ở Ngọc Hà, Hữu Tiệp đã có
từ thời Lý, Trần. Trong sử sách còn ghi lại, năm 1526, Trần Châu đóng
quân ở Hoàng Hoa Thị (chợ hoa vàng). Có thể chợ Ngọc Hà ngày nay là dấu
vết của Hoàng Hoa Thị ngày xưa chăng? Và thời đó dân làng hoa trồng
nhiều cúc vàng nên có tên là Hoàng Hoa Thị? Cuối thế kỷ 19 thì hai làng
Ngọc Hà, Hữu Tiệp có tên chung là Trại Hàng Hoa. Hoa Ngọc Hà cung cấp
cho những người sành chơi đất Kinh kỳ. Sau năm 54, dân Ngọc Hà, Hữu Tiệp
thiếu đất còn đi mua, thuê đất ở Nghĩa Đô, An Phú, Mai Dịch để trồng
hoa đấy…Hoa Ngọc Hà nức tiếng kinh kỳ và thân quen với người dân Hà
thành như hơi thở. Lễ, tết, ma chay, cưới hỏi, cúng lễ, người ta đổ xô
lên Ngọc Hà mua hoa. Những ngày áp tết, người ta đổ xô lên Ngọc Hà ngắm
và mua hoa. Và khi ấy mình hay được phân công dẫn đưa khách đi vãn
cảnh…Kí ức đó giờ vẫn sống động trong tâm hồn mình với những vườn hoa
lộng lẫy đẹp mê hồn. Cả làng hoa rực rỡ sắc màu và được ướp đủ hương hoa
các loại…
“Ngày rằm đi chợ mua hoa.
Phải chờ thấy gánh Ngọc Hà mới mua”.
Và:
“Giếng Ngọc Hà vừa trong vừa mát
Vườn Ngọc Hà thơm ngát gần xa
Hỡi người gánh nước tưới hoa
Có cho ai được vào ra chốn này”
Trước lúc mình sang Nga học, mẹ đau khổ bảo mình: “Con vẫn mắc nợ làng hoa mình vì con chưa viết gì về sự tiêu vong của nó”.
Món nợ đó giờ mình chưa trả được. Phần vì những người biết chuyện ngày
xửa, ngày xưa đã lên cõi trời, người ở lại tản tác khắp nơi…Làng hoa giờ
còn mấy ai là dân gốc? Họ bán đất bỏ xứ mà đi. Làng hoa giờ thành ngõ
bê tông chật chội, xấu xí. Kết quả của quá trình đô thị hóa xô bồ, bát
nháo. Làng hoa cổ đã biến mất không dấu vết…Nỗi đau của những người Ngọc
Hà đã mất, đã xa quê vẫn còn nguyên đó…
Lại
nói chuỵên về gia đình ông ngoại. Cụ huyện cho học chữ nhưng cấm cháu
gái học đàn vì sợ hư thân. Cấm đeo trang sức trên người vì gần những thứ
xa xỉ lòng người dễ sinh tham lam, hư hỏng. Đàn bà ham xa xỉ, phù phiếm
mất đi cái sang. Mẹ cả đời không biết đến cái nhẫn vàng. Một phần khi
lập thân, thời của mẹ quá nghèo để có tiền mua vàng. Phần nữa mẹ hoàn
toàn không màng những thứ đó. Lúc còn bé, mẹ không kể gì nhiều cho chị
em mình nghe chuyện các cụ dạy dỗ mẹ như thế nào, nhưng cứ âm thầm gieo
vào chị em mình những gì thành tâm tính của mẹ…Đến giờ dù đã có thể mua
cho mình vài đồ trang sức, nhưng không hiểu sao mình không thích những
thứ đó một cách rất tự nhiên…Lạ thế!
![]() |
Chợ Đồng Xuân ngày xưa đẹp là vậy... |
Còn
nhớ ngày bé khóc lên khóc xuống mỗi khi bị mẹ “hành”. Nào là con gái
phải gọn gàng. Không được cười ngoác miệng, nói to. Ăn uống phải ngậm
miệng, chớ có nhai tóp tép. Khi đi đứng phải từ tốn, chậm rãi, không
được bước chân mạnh, hai tay tung tẩy. Pha ly nước chanh cho khách mà
còn để tép và hạt chanh rơi trong ly thì đem vào nhà trong làm lại. Bữa
cơm mời khách dù chỉ rau luộc, cà muối nhưng đĩa rau phải xanh, những
ngọn rau gắp vào đĩa cấm xô xệch, vung vãi…Nhiều lần đã bê mâm cơm ra
mời khách mình lại phải bê vào để sắp đặt cho mẹ vừa ý. Vừa ấm ức, vừa
bực bội mà vẫn phải làm đúng những gì mẹ đề nghị. Lúc bé chưa biết thì
phải ngồi cạnh để xem người lớn làm cỗ như thế nào. Cả cái cách thái
miếng su hào nấu bóng khác với miếng su hào sào cần tây cũng không được
sai quấy…Còn nhớ chị gái mình đã bị mẹ “lên lớp” về cái tội ngủ trưa tốc
áo hở bụng khi 16 tuổi đến bật khóc. Căn nhà chật chội nhét đủ bốn con
cả trai lẫn gái cùng hai bố mẹ nên mẹ không đồng ý cho con gái mặc áo ba
lỗ ở nhà. Mẹ bảo nhà có hai đàn ông, dù là bố và anh trai thì cũng phải
ý tứ…Thôi thì cơ man là những qui định bất thành văn phải tuân thủ. Dù
có khó chịu, bực bội thì vẫn phải làm đúng. Mãi thì những qui định ấy
ngấm vào người thành nết ăn ở của con cháu sau này…Mẹ thích con gái dịu
dàng, tinh tế, ý nhị, kín đáo, đằm thắm, nhỏ nhẹ…Toàn những thứ khó khó
là với mình…Hihi…Thôi thì không cố được 100% thì cũng phải quá nửa để mẹ
vui, hài lòng.
![]() |
Cầu Long Biên như nhjp tim của người Hà Nội... |
Không
hiểu sao mình nhớ nhất bàn trà của cha mẹ. Mẹ hay ngồi đó uống trà và
thưởng hoa. Bố trồng mấy chậu địa lan Mạc lan, Trần mộng, thủy tiên và
mỗi lần đơm bông lại bê đặt hiên nhà để có thể ngắm nhìn và thưởng mùi
ngan ngát của nó lan tỏa đến bên ấm trà bốc khói. Bố được thừa hưởng cái
thú chơi hoa, cây cảnh từ ông ngọai vốn là người sành chơi hoa, nhất là
hoa thủy tiên. Thời xưa, ông ngoại tham gia hội chơi hoa thủy tiên. Khá
nhiều hội hoa thời đó của các cụ: hội hoa đỗ quyên, hội hoa địa lan…Ông
ngoại mình tỉa củ thủy tiên khéo đến nỗi thủy tiên của ông bao giờ cũng
đơm hoa đúng giao thừa. Khi nhỏ mẹ là con út được ông ngoại cưng chiều
nên hay cho cùng ngồi uống trà, thưởng hoa vào buổi tà dương để nói
chuỵên nhà, đọc thơ. Nếp thưởng trà đó mẹ duy trì cho đến khi lìa đời.
Mẹ lên cơn nhồi máu cơ tim ngay bên bàn trà.
Mấy
chục năm bố mẹ pha trà, uống trà và đọc thơ cho nhau nghe quanh cái bàn
trà cũ kĩ ấy. Đôi lúc có thêm bạn thơ quí mến nhau tìm đến, xúm quanh
bàn trà đọc thơ cho nhau nghe. Mẹ yêu thơ Đường và có giọng đọc nghe
buồn bã rất mê hoặc. Bố có lúc đùa bảo mẹ đừng đọc thơ vì giọng mẹ buồn
lắm mà ông lại thích vui vẻ. Anh chị em mình lớn lên trong tiếng ru, đọc
thơ của mẹ. Mẹ bảo, cuộc sống có thể thiếu nhiều thứ, nhưng không thể
thiếu sách và thơ. Tủ sách là tài sản duy nhất mẹ viết trong di chúc để
lại cho mình ngoài gian nhà thừa kế của ông ngọai. Bên bàn trà mẹ đọc
sách mỗi ngày và suy ngẫm về đạo làm người, về cuộc đời. Không biết mẹ
ngộ ra điều gì khi ấy, chỉ biết sau này mẹ viết trong di chúc dặn các
con qua lời của V.A Xukhômlinxki: “Chỉ người nào biết yêu thương mới
trở thành rộng rãi. Phải hiểu rõ chân lí này, cái chủ yếu nhất mà những
của cải trên xứ sở chúng ta không thể sánh nổi đó là sự giàu có về tinh
thần, trí tuệ, kiến thức, sự thông minh, tài năng, sáng tạo, tình bạn và
tình yêu chung thủy với con người. Hãy học để có được sự giàu có ấy. Bí
quyết của sự rộng rãi chân chính là ở chỗ đó. Tính keo kiệt làm cho con
người nghèo đi, trở thành ích kỉ và vụ lợi. Của cải tồn tại để phục vụ
con người chứ không phải nô dịch con người”. Mẹ còn dặn các con dạy
các cháu của mẹ sau này là phải hết lòng với người thân, bạn bè, những
người có hoàn cảnh không may mắn, không được làm điều gì ác với bất cứ
ai, không tham lam, ích kỉ, không tự thương xót bản thân mình một cách
quá đáng, đặc biệt phải tránh xa thói vong ân bội nghĩa…
![]() |
Tuổi thơ Hà Nội thế này... |
(Kỉ niệm ngày được mẹ sinh thành)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét