Vì sao tôi viết?
Tháng Mười Hai 7, 2012
Cuộc chiến tranh kết thúc vào
ngày 30-4-1975 mang lại chính quyền cho một bên. Tôi
bắt đầu thu thập tư liệu cho cuốn sách này
từ cuối thập niên 1980 và đã dành ra ba năm bốn tháng để hoàn
thành bản thảo (8-2009 đến 12-2012). Trong thời gian đó,
có rất nhiều ý tưởng đặt tên cho cuốn sách. Nhưng, chỉ có một ý mà từ đầu tới cuối cứ ám ảnh tôi, đó
là những gì mà nhà thơ Nguyễn Duy tóm lược rất tài tình
trong hai câu thơ của ông: “Suy cho cùng trong mỗi cuộc chiến tranh/
Bên nào thắng thì nhân dân đều bại”. Tựa đề bộ sách ra đời từ đó.
Không ai có thể đi đến tương lai
một cách vững chắc nếu không hiểu trung thực về quá khứ, nhất là một quá khứ mà
chúng ta can dự và có phần cộng đồng trách nhiệm.
Cuốn sách này bắt đầu bằng những
câu chuyện xảy ra trong ngày 30-4-1975. Ngày mà tôi, một cậu bé mười ba, trước
giờ học chiều, đang vật nhau ven đồi thì nghe loa phóng thanh truyền tin “Sài
Gòn giải phóng”. Thay vì tiếp tục ăn thua, chúng tôi buông nhau ra.
Miền Nam, theo như những bài học của
chúng tôi, sẽ chấm dứt “20 năm rên xiết lầm than”. Trong cái thời khắc lịch sử
ấy, trong đầu tôi, một sản phẩm của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa, xuất hiện ý
nghĩ: Phải nhanh chóng vào Nam
để giáo dục các bạn thiếu niên lầm đường lạc lối.
Nhưng hình ảnh miền Nam đến với tôi
trước cả khi tôi có cơ hội rời làng quê nghèo đói của mình. Trên quốc lộ Một
bắt đầu xuất hiện những chiếc xe khách hiệu Phi Long thỉnh thoảng tấp lại bên
những làng xóm xác xơ. Một anh chàng tóc ngang vai, quần loe, nhảy xuống đỡ
khách rồi đu ngoài cánh cửa gần như chỉ trong một giây trước khi chiếc xe rú ga
vọt đi. Hàng chục năm sau, tôi vẫn nhớ hai chữ “chạy suốt” bay bướm, sặc sỡ sơn
hai bên thành xe. Cho tới lúc ấy thứ tiếng Việt khổ lớn mà chúng tôi nhìn thấy
chỉ là những chữ in hoa cứng rắn viết trên những băng khẩu hiệu kêu gọi xây
dựng chủ nghĩa xã hội và đánh Mỹ.
Những gì được đưa ra từ những
chiếc xe đò Phi Long thoạt đầu thật giản đơn: Mấy chiếc xe đạp bóng lộn xếp
trên nóc xe; cặp nhẫn vàng chóe trên ngón tay một người làng tập kết vừa về Nam
thăm quê ra; con búp bê nhựa – biết nhắm mắt khi nằm ngửa và có thể khóc oe oe
– buộc trên ba lô của một anh bộ đội phục viên may mắn.
Những cuốn sách của Mai Thảo,
Duyên Anh… được các anh bộ đội giấu dưới đáy ba lô đã giúp bọn trẻ chúng tôi
biết một thế giới văn chương gần gũi hơn Rừng Thẳm Tuyết Dày[1], Thép Đã Tôi
Thế Đấy[2]… Những chiếc máy Akai, radio cassettes, được những người hàng xóm
tập kết mang ra, giúp chúng tôi biết những người lính xa nhà, đêm tiền đồn còn
nhớ mẹ, nhớ em, chứ không chỉ có “đêm Trường Sơn nhớ Bác”. Có một miền Nam không giống như miền Nam trong sách
giáo khoa của chúng tôi.
Tôi vẫn ở lại miền Bắc, chứng
kiến thanh niên quê tôi đắp đập, đào kênh trong những năm “cả nước tiến nhanh,
tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội”. Chứng kiến khát vọng “thay
trời, đổi đất sắp đặt lại giang san” của những người vừa chiến thắng trong cuộc
chiến ở miền Nam…
Chứng kiến cũng những con kênh đó không những vô dụng với chủ nghĩa xã hội mà
còn gây úng lụt quê tôi mỗi mùa mưa tới.
Năm 1983, tôi có một năm huấn
luyện ở Sài Gòn trước khi được đưa tới Campuchia làm chuyên gia quân sự. Trong một
năm ấy, hai cô em gái của Trần Ngọc Phong[3], một người bạn học chung ở trường
sỹ quan, hàng tuần mang tới cho tôi bốn, năm cuốn sách. Tôi bắt đầu biết đến
rạp chiếu bóng, Nhạc viện và sân khấu ca nhạc. Cho dù, đã kiệt quệ sau 8 năm
“giải phóng”, Sài Gòn với tôi vẫn là một “nền văn minh”. Những năm ấy, góc phố
nào cũng có mấy bác xích lô, vừa mỏi mòn đợi khách vừa kín đáo đọc sách. Nhiều
người trong số họ mới ở trong các trại cải tạo trở về. Tôi bắt đầu tìm hiểu Sài
Gòn từ câu chuyện của những bác xích lô quen như vậy…
Mùa Hè năm 1997, một nhóm phóng
viên vì nhiều lý do phải rời khỏi tờ báo Tuổi Trẻ như Đoàn Khắc Xuyên, Đặng Tâm
Chánh, Đỗ Trung Quân, Huỳnh Thanh Diệu, Nguyễn Tuấn Khanh, Huy Đức… Chúng tôi
thường xuyên gặp gỡ, chia sẻ và trao đổi với các đồng nghiệp như Thúy Nga, Minh
Hiền, Thế Thanh, Cam Ly, Phan Xuân Loan… Thế Thanh lúc ấy cũng vừa bị buộc thôi
chức Tổng biên tập báo Phụ Nữ Thành Phố, và cũng như Tổng biên tập báo Tuổi Trẻ
Kim Hạnh trước đó, chị không được tiếp tục nghề báo mà mình yêu thích.
Chúng tôi nói rất nhiều về thế
sự, về những gì xảy ra trên thế giới và ở đất nước mình. Một hôm ở nhà Đỗ Trung
Quân, nhà báo Tuấn Khanh, người vừa gặp rắc rối sau một bài báo khen ngợi ca sỹ
bị coi là chống cộng Khánh Ly, buột miệng nói với tôi: “Anh phải viết lại những
gì diễn ra ở đất nước này, đấy là lịch sử”. Gần như không mấy ai để ý đến câu
nói đó của Tuấn Khanh, nhưng tôi thì cứ bị nó đeo bám. Tôi tiếp tục công việc
thu thập tư liệu với một quyết tâm cụ thể hơn: Tái hiện giai đoạn lịch sử đầy
bi kịch của Việt Nam
sau năm 1975 trong một cuốn sách.
Rất nhiều thế hệ, kể cả con em
của những người đã từng phục vụ trong chế độ Việt Nam Cộng hòa, sau ngày
30-4-1975, cũng trở thành sản phẩm của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa, nhiều
người không biết một cách chắc chắn điều gì đã thực sự xảy ra thậm chí với ngay
chính cha mẹ mình.
Không chỉ thường dân, cho đến đầu
thập niên 1980, nhiều chính sách làm thay đổi số phận của hàng triệu sinh linh
như “Phương án II”[4], như “Z 30”[5] cũng chỉ được quyết định bởi một vài cá
nhân, nhiều người là ủy viên Bộ chính trị cũng không được biết. Nội bộ người
Việt Nam
đã có nhiều đụng độ, tranh cãi không cần thiết vì chỉ có thể tiếp cận với lịch
sử qua những thông tin được cung cấp bởi nhà trường và bộ máy tuyên truyền. Không
chỉ các thường dân, tôi tin, những người cộng sản có lương tri cũng sẽ đón nhận
sự thật một cách có trách nhiệm.
Cuốn sách của tôi bắt đầu từ ngày
30-4-1975, ngày nhiều người tin là miền Bắc đã giải phóng miền Nam. Nhiều
người thận trọng nhìn lại suốt hơn ba mươi năm, giật mình với cảm giác bên được
giải phóng hóa ra lại là miền Bắc. Hãy để cho các nhà kinh tế chính trị học và
các nhà xã hội học nghiên cứu kỹ hơn hiện tượng lịch sử này. Cuốn sách của tôi
đơn giản chỉ bắt đầu kể những gì đã xảy ra ở Sài Gòn, ở Việt Nam sau ngày
30-4: cải tạo; đánh tư sản; đổi tiền… Cuốn sách của tôi cũng nói về hai cuộc
chiến tranh cuối thập niên 1970, một với Khmer Đỏ và một với người Trung Quốc.
Cuốn sách của tôi cũng nói về làn sóng vượt biên sau năm 1975, nói về sự “đồng
khởi” của nông dân, của các tiểu chủ, tiểu thương để dành lấy cái quyền được tự
lo lấy cơm ăn áo mặc.
Tư liệu cho cuốn sách được thu
thập trong hơn hai mươi năm, và trong vòng ba năm (từ tháng 8-2009 đến tháng
8-2012) tôi đã dành toàn bộ thời gian của mình để viết. Bản thảo cuốn sách đã
được gửi tới một số thân hữu và một số nhà sử học, trong đó có 5 nhà sử học uy
tính của Mỹ chuyên nghiên cứu về Việt Nam. Sau khi sửa chữa, bổ sung,
tháng 11-2012, bản thảo hoàn chỉnh đã được gửi đến một số nhà xuất bản trong
nước, tuy nhiên, nó đã bị từ chối. Cho dù một số nhà xuất bản tiếng Việt có uy
tín tại Mỹ và Pháp đồng ý in, nhưng để lãnh trách nhiệm cá nhân và giữ cho cuốn
sách một vị trí khách quan, tác giả quyết định tự mình đưa cuốn sách này đến
tay bạn đọc.
Đây là công trình của một nhà báo
mong mỏi đi tìm sự thật. Tuy tác giả có những cơ hội quý giá để tiếp cận với
các nhân chứng và những thông tin quan trọng, cuốn sách chắc chắn không tránh
khỏi những thiếu sót, chắc chắn sẽ còn được bổ sung khi một số tài liệu được Hà
Nội công bố. Hy vọng bạn đọc sẽ giúp tôi hoàn thiện nó trong những lần xuất bản
sau.
Lịch sử cần được biết như nó đã
từng xảy ra và sự thật là một con đường đòi hỏi chúng ta không bao giờ bỏ cuộc.
Sài Gòn – Boston (2009-2012)
Theo facebook.com
[1] Tiểu thuyết cách mạng của
Trung Quốc.
[2] Tiểu thuyết cách mạng của
Liên Xô.
[3] Đạo diễn điện ảnh.
[4] Tổ chức cho người Hoa nộp
vàng để được vượt biên bán chính thức (1978-1979).
[5] Cải tạo những người giàu lên
bất thường (1983).
Nguồn: http://haydanhthoigian.net/2012/12/07/vi-sao-toi-viet/
hoặc: http://quechoa.vn/2012/12/07/vi-sao-toi-viet/
hoặc: http://quechoa.vn/2012/12/07/vi-sao-toi-viet/
..........
Tác giả có bao giờ nhận chân được sự thật mà không có một tí ti nào thiên kiến?
Trả lờiXóaHỏi tác giả cũng là hỏi chính tôi. Phàm là người không tránh khỏi thiên (lệch) kiến.
Tôi xin lỗi nếu có làm tác giả nổi giận vì có một phần nào đó về sự bất tín của tôi.
Bạn nói đúng: "Phàm là người không tránh khỏi thiên kiến". Kg ai thiên kiến giống ai. Nhưng thiên kiến chỉ là ý nhỏ, sự thật lịch sử mới là đại cục. Sao ta kg bỏ qua cái bé mà nhìn ra đại cục, bỏ qua cái cá nhân mà nhìn thấy cái gì đã đang dìm chết cái cá thể.
XóaTác giả cuốn sách này là nhà văn Huy Đức. Tôi nghĩ HĐ có gan viết những "cái" lớn như thế thì chả bao giờ giận những điều lặt vặt đâu. Trong Bạn Văn của Ng. Quang Lập cũng có 1 bài về HĐ. Bạn nên hiểu thêm về HĐ để hiểu cuốn sách hơn. Bạn đã đọc nhiều comment của bài này ở các trang web khác chưa?!
Chúc bạn khỏe!
Đây đúng là "giọng" anh Trạch ! Em nghe mãi (thời trai trẻ) thành nhớ anh ạ. Nếu vô tình hôm nay anh đọc được dòng này thằng em H chúc anh khỏe mãi !
XóaAnh Huy Đức-Trương Huy San, nhập ngũ tháng 3-1979, học viên trường Sỹ quan hóa học (1980-1983), chuyên gia quân sự ở Campuchia (1984-1987), phóng viên báo Tuổi Trẻ, Thanh Niên, Thời báo Kinh tế Sài gòn, và Sài Gòn Tiếp Thị (1988-2009), Nieman Fellow về phân tích chính trị tại Đại học Harvard (2012-2013). Các bạn có biết không, đã đọc cuốn sách này chưa? Đọc rồi mới nhận xét được chứ...?
Trả lờiXóaBài viết hay.
Trả lờiXóaLà ai giải phóng cho ai?
Chùm ảnh sinh động chi tiết về Sài Gòn chưa http://keluuday.blogspot.com/2015/03/oi-sai-gon-xua.html