Nghỉ hè xong lên lại trường, mọi người
được nghe một thông tin: chúng tôi đã
bị “trượt xổ số”. Tất cả các con đường
ra nước ngoài “đang bị đóng cửa”, không có đợt nào đi trong thời điểm này. Vậy
là toàn bộ lứa chúng tôi được chuyển sang đào tạo trong nước tại Đại học Quân
Sự (không biết được đổi tên thành Học Viện Kỹ Thuật khi nào). Vào giữa tháng
9/1974 bộ đội 2 tiểu đoàn của trường Văn Hoá Bộ Quốc phòng đã qua thi và kiểm
tra được chuyển đi học tại Đại học Quân Sự. Do cần làm một số công việc, một số
người sẽ đi sau, trong đó có tôi. Tình cờ lúc đó bác cục trưởng Cục Chính Trị
Bộ Quốc Phòng lên thăm trường. Trường tập hợp học viên để nghe bác phổ biến chủ
trương cho các quân nhân là sinh viên về
học tiếp trường đại học để nhà nước đỡ
tốn kém, khi tốt nghiệp nếu cần quân đội sẽ gọi lại. Do vậy, phần lớn những
người chưa đi đã được Trường Văn hoá cho xuất ngũ về các trường đại học học
tiếp, thay vì phải học lại từ đầu tại Đại Học Quân Sự. Vậy là tôi bất
ngờ được xuất ngũ vào ngày 30 tháng 11 năm1974. Tôi về làm thủ tục với trường đại học rồi lấy
giấy giới thiệu quay lên Lạng Sơn nhận lại lý lịch. Nhưng hồi đó học viên đi
học lý lịch quân nhân vẫn được lưu tại các bộ tư lệnh binh chủng, nên tôi lại
phải quay về Bộ tư lệnh 351.
Trong đầu tôi nhớ mãi ngày từ biệt Trường Văn Hoá Quân Đội (gọi tắt của trường văn hoá Bộ Quốc Phòng). Sáng ra tôi theo xe của trường về Hà Nội công tác, vì có mỗi mình tôi và lái xe nên tôi được lái xe mời lên ca bin ngồi. Học viên của trường văn hoá Quân đội rất được anh em phục vụ trong trường nể trọng, vì họ biết người đã lên đây là những lính “siêu” rồi, thế nên tôi được lái xe ưu ái trên đường đi, hơn nữa anh lái cứ nghĩ tôi đang thực hiện “công vụ” của trường. Xe vượt dốc Sài Hồ hiểm trở đã nổi tiếng bấy lâu (bây giờ đã có đường 1 mới, chắc ít ai phải đi qua đó nữa), tới Đồng Mỏ, chúng tôi ngừng lại ăn sáng, uống nước. Mấy lần đi qua Đồng Mỏ, nhưng chỉ ngồi trên tàu nên tôi chưa được thưởng thức cảnh phố xá ở đây. Đồng Mỏ nằm bên dãy núi đá, và một bên đồi. Tôi cũng không ngờ rằng cách đấy 2 năm Đồng Mỏ đã bị bom Mỹ oanh tạc, chắc bọn Mỹ nghi ngờ nơi đây là kho cất vũ khí đạn dược của ta. Lúc bấy giờ Đồng Mỏ đã không còn để lại dấu vết gì nữa của trận ném bom. Nơi đây thật đẹp, yên bình. Rồi chúng tôi tới Ải Chi Lăng, xe dừng lại ngay tại cửa Ải, tôi xuống xe, ngắm nhìn cái hồ lô đã diệt bao quân Minh xâm lược sáu trăm năm trước đây, thật là hùng vĩ, thật là hóc hiểm. Cuộc hành trình cho tới chiều là tới bên này cầu Long Biên. Tôi từ biệt lái xe, và cũng từ đó, cuộc hành trình đáng nhớ còn mãi trong tôi. Có lẽ đó là cuộc hành trình duy nhất vì suốt bao năm qua tôi chưa có dịp về lại Lạng Sơn.
Trong đầu tôi nhớ mãi ngày từ biệt Trường Văn Hoá Quân Đội (gọi tắt của trường văn hoá Bộ Quốc Phòng). Sáng ra tôi theo xe của trường về Hà Nội công tác, vì có mỗi mình tôi và lái xe nên tôi được lái xe mời lên ca bin ngồi. Học viên của trường văn hoá Quân đội rất được anh em phục vụ trong trường nể trọng, vì họ biết người đã lên đây là những lính “siêu” rồi, thế nên tôi được lái xe ưu ái trên đường đi, hơn nữa anh lái cứ nghĩ tôi đang thực hiện “công vụ” của trường. Xe vượt dốc Sài Hồ hiểm trở đã nổi tiếng bấy lâu (bây giờ đã có đường 1 mới, chắc ít ai phải đi qua đó nữa), tới Đồng Mỏ, chúng tôi ngừng lại ăn sáng, uống nước. Mấy lần đi qua Đồng Mỏ, nhưng chỉ ngồi trên tàu nên tôi chưa được thưởng thức cảnh phố xá ở đây. Đồng Mỏ nằm bên dãy núi đá, và một bên đồi. Tôi cũng không ngờ rằng cách đấy 2 năm Đồng Mỏ đã bị bom Mỹ oanh tạc, chắc bọn Mỹ nghi ngờ nơi đây là kho cất vũ khí đạn dược của ta. Lúc bấy giờ Đồng Mỏ đã không còn để lại dấu vết gì nữa của trận ném bom. Nơi đây thật đẹp, yên bình. Rồi chúng tôi tới Ải Chi Lăng, xe dừng lại ngay tại cửa Ải, tôi xuống xe, ngắm nhìn cái hồ lô đã diệt bao quân Minh xâm lược sáu trăm năm trước đây, thật là hùng vĩ, thật là hóc hiểm. Cuộc hành trình cho tới chiều là tới bên này cầu Long Biên. Tôi từ biệt lái xe, và cũng từ đó, cuộc hành trình đáng nhớ còn mãi trong tôi. Có lẽ đó là cuộc hành trình duy nhất vì suốt bao năm qua tôi chưa có dịp về lại Lạng Sơn.
![]() |
(Tôi trước ngày gác kiếm -12/ 2010)
|
Những Ưu
tư
Khi tôi về quê hương vì không liên lạc được
với ai, nên cũng không ai biết tôi ở phương trời nào. Các anh em Khoá 18 Toán Lý được tuyển vào
quân đội, được đưa vào Trường Sĩ Quan bộ binh 200 gần Hoà Lạc, được rèn suốt
sáu tháng, có rẽ còn mệt hơn so với tôi khi được rèn ở Sư 325. Năm 2006, tôi ra công tác Hà Nội gặp
lại anh em trong lớp. Họ vẫn gọi tôi bằng anh xưng em lễ phép như ngày nào
khi ở tuổi gần 60. Lúc đó tôi mới biết
riêng lớp tôi vẫn còn 4 người trong quân đội, cho đến nay thì bốn người đó là :
+ Tạ Quang Chính (con bác Tạ Quang
Bửu): Bạn tri kỷ thuốc lá với tôi mấy năm học, Thiếu tướng Chủ nhiệm chính trị
Cục chính trị, Tổng cục Công Nghiệp Quốc phòng Bộ Quốc Phòng
+ Giáo sư tiến sĩ đại tá Nguyễn Trọng
Toàn, Học viện Kỹ thuật quân sự, tay Toàn đã từng dẫn tôi về nhà tại phố Hàng
Bông lấy cho tôi mấy chiếc cúc áo bông bị tuột ngày nào.
+ Đại tá Đào Chí Thanh, công tác tại Bộ
tư lệnh Phòng Không Không Quân. Hôm tôi đến nhà thấy trên máy tính anh ấy đang thử chương trình như làm phần mềm
trò chơi, tôi hỏi :’Mày thất nghiệp hay sao mà phải đi làm trò chơi”, nó đáp :”
Dự án bạc tỷ đấy anh ạ, đây là phần mềm để huấn luyện xạ kích mục tiêu cho bộ
đội đấy”. Thế mới biết quân đội đã ứng dụng khoa học khác xa với thời tôi làm
lính
+ Còn một bạn nữ
nữa cũng là lính: Đại Tá Đào Ngọc Anh (con gái bác Đào Thiện Thi Bộ trưởng Bộ tài chính
những năm tôi về học) công tác tại quân khu 7 mới nghỉ hưu, đã ra lại Hà Nội.
Thế đấy, tưởng rằng chỉ có các anh em ở
đơn vị chiến đấu của tôi trưởng thành, không ngờ các “đàn em” của tôi cũng đã
phục vụ trọn đời cho binh nghiệp.
Cho đến ngày 5/8/2013 anh Loát còn cho tôi biết về
đại đội sáu của tôi: Đến tháng 3 năm 1974
cả tiểu đoàn 371 trở về trực thuộc trung đoàn 97, đóng ở Trung Hà, Sơn Tây. Lúc
đó đại đội 969 cũng ra Bắc rồi và đã được nhập vào 371. Đến cuối năm 1974 anh
Loát được tiểu đoàn điều sang 969, ở đây anh làm Tiểu đội trưởng một tiểu đội,
để 969 kiện toàn đội ngũ, chuẩn bị đi chiến dịch xuân 1975 tiến tới chiến dịch
Hồ Chí Minh giải phóng Sài Gòn.
Tôi
cũng được anh Loát cho biết sự ra đi đau đớn và oan ức của anh Điến. Nếu đúng
như lời anh Loát nói, thì sự việc khác với thông tin lâu nay tôi đã tưởng anh
mất vì đau dạ dày. Anh Loát kể: sau khi phục vụ quân đội, anh Điến về nhà và đi
làm. Do sự nhầm lẫn gì đó về xe cộ, anh bị người ta đánh thành bệnh, sau đó anh
ra đi trong đau đớn. Cái tìn này làm tôi đau đớn tan nát cõi lòng, thương cảm
cho anh vô cùng. Không ngờ người anh thân yêu của đoàn 6 chúng tôi, đã ra đí tất tưởi và vô lý như vậy.
Ngày 26/4/2013 Hội cựu chiến binh Đại
Học Bách Khoa Hà Nội công bố kỷ yếu cựu chiến binh. Tôi cũng được các anh cấp
cho 1 quyển. Tổng số lượng cựu chiến binh
của trường các đợt ra đi là khoảng 2700, không biết các anh ấy có tính
số “sư đệ” của tôi không nhưng một mảng
khá lớn cựu chiến binh của trường không được nhắc đến. Trong số danh sách các
liệt sĩ ghi trong kỷ yếu, có trường hợp của Lưu Khánh Hồng hơi đặc biệt đó là
trường hợp duy nhất được xác định qua phương pháp ngoại cảm (hình như qua nhà ngoại cảm PTBH) an táng ở tại NTLS Đắc Lắc trang 441. Nhưng trong kỷ yếu của Đại đội 3
do anh Nguyễn Văn Phúc làm đại đội
trưởng, trang 244 lại ghi anh hy sinh tại Quảng
Ngãi và mộ vẫn còn, tất nhiên là đồng đội trong C3 của anh có biết). Vậy là
2 thông tin này trái ngược nhau. Quyển kỷ yếu của đại đôi 3 do cựu chiến binh
đại đội 3 xây dựng đã hoàn thành và được công bố vào 26/5/2013. Nhân nói về
ngoại cảm, ở đâu xa xôi không rõ, nhưng năm 2012 đoàn cựu chiến binh của tiểu đoàn 371 về thăm
chiến trường Quảng Trị, và tìm mộ liệt sĩ
có lẽ đã sử dụng đến phương pháp này mà một vài anh em cũng chưa tìm
ra!. Tôi thấy phương pháp này thật khó tin, và có dáng vẻ gì đó đồng bóng
Trở
về với đời thường tôi luôn áy náy trong
lòng với câu hỏi: “Tôi đi rồi đơn vị ta sẽ còn đi những đâu” . Năm 2009 anh
Châu cho số điện thoại của anh Tuân, tôi gọi cho anh, khi đó tôi mới biết rằng
B72 chúng ta còn phải vất vả cho tới 1985 trên các điểm chốt cao nơi biên giới.
Nhớ
lại những ngày nào, chúng tôi đã đội những trận bom B52 “chụp” vào đội hình: bao lần ở Quảng
Trị, mấy lần tại Tây nam Huế, tính ra đến vài nghìn quả, không kể những trận
“được hù doạ” thêm. Bao nhiêu lần đạn pháo, đạn cối “NỞ RỘ tới thăm” tại trận địa và trên đường hành quân. Nào Khe Tử,
Động Tranh, nào La Vang, nào A Lưới, nào Dốc Miếu, nào Cửa Việt…. Dù
hiểm nguy, dù gian lao vất vả, anh em ta
chẳng hề nao núng, vẫn kiên trung quyết chiến, đem về những chiến công.
![]() |
Núi rừng Quảng Trị năm xưa vẫn còn đây, bây giờ đã tươi da lành
thịt!
(Ảnh do đoàn cựu chiến bính tiểu đoàn 371 chụp năm 2012 khi về thăm
Quảng Trị)
|
Tôi nhớ
mãi ngày 6/9/1971, ngày
chúng tôi lên đường cầm súng đánh giặc.
Hàng năm cựu chiến binh Bách Khoa đều nhớ đến nhau, tìm gặp nhau để lui
về những kỷ niệm. Đi đâu nếu gặp ai đã là lính 6/9/71 lại cùng nhau bồi hồi ôn
lại quãng thời gian lên đường hào hùng đó. Tôi cũng nhớ tới ngày 14
tháng 4 năm 1972, ngày xuất quân
của đoàn 6, từ ngày đó có những anh em đi mãi không về, có những anh em trở
thành anh hùng, làm vẻ vang cho đơn vị: Trần Thanh Hải, Lê Văn Trung, Chu
Trọng Cát. Các anh đã
làm chúng tôi tự hào khi nhớ tới lời
ca “Trùng trập trùng Đoàn Sáu ta đi”, đã Anh Hùng lại có những Anh Hùng.
Những cái
tên đã đi qua trong cuộc đời được khắc sâu trong trí nhớ: Bãi Hà, Ngã Ba Làng
Nút, Suối La La, Ba Gơ, Ba Lòng, Thạch Hãn, Như Lệ, Tích Tường, Đông Hà, Lai
Phước, Động Ông Do, Thành Cổ, Ái Tử, Câu
Nhi, La Vang, Cầu Nhùng, Mỹ Chánh, Cửa Việt, Dốc Miếu…. Và Cốc Bai, Ô Lâu, A
Lưới, Đường 12, Tây nam Huế, Hòn Vượn, Bình Điền, Động Tranh, Khe Tử
Có những đêm trong mơ lại nghe tiếng
bom B52 đanh… đanh.., tiếng pháo rít đuỳnh đoàng, giật thót con tim, thảng thốt
tỉnh dậy tôi thao thức, lại da diết nhớ đến những ngày nào, nhớ tới các anh.
Mỗi lần nghĩ đến các kỷ niệm với các anh Điến anh Châu, anh Thành, anh Phượng,
anh Thể, anh Loát, anh Duy, anh Hùng, anh Thanh, … tôi lại nao nao, bồi
hồi. Lòng tôi buồn nhớ tới các anh đã hy
sinh, các anh đã đi trước tôi về cõi vĩnh hằng để lại cho tôi bao nhớ nhung,
bao kỷ niệm
Sau khi liên lạc được với các anh Kỳ,
anh Cơ, tôi được anh Cơ cho biết xắp tới có một nhà văn nào đó sẽ viết một cái
gì đó về chiến trường Quảng Trị thật rõ ràng, thật hoành tráng, để mô tả có tính tầm vóc của chiến trường
Quảng Trị. Tôi rất hy vọng được thế, nhưng liệu ông ấy có tổng hợp được hết tất
cả các cái nhìn của hàng vạn chiến sĩ và những nhà chỉ huy hay không?. Riêng
cái nhìn của tôi đã mất trên tám mươi trang mất rồi. Hy vọng rằng ông ấy đừng
lặp lại trường hợp B72 bố trí trên bờ bắc sông Cửa Việt, như cái truyện kia,
nếu vậy thì sự tổng hợp sẽ méo mó khôn lường.
![]() |
(Đôi vợ chồng già trên đỉnh
Bà Nà, 8/2012)
|
Đã bốn mươi năm qua đi, giờ đây đã ở tuổi ban
chiều. Những dòng tâm huyết trên tôi viết ra để nhớ lại những gì ở thời xa xôi
ấy, những gì mà tôi và đồng đội cùng nhau đã một thời. Đồng đội
của tôi giờ đây dần thưa thớt theo tháng ngày. Mong sao những anh em còn lại
hãy cùng viết, để gom góp xây dựng thành
bản trường ca Đoàn 672 đã một thời
vang danh. Nếu không sẽ chẳng kịp nữa, nếu không những kỷ niệm, những nhọc nhằn
của chúng ta những ngày ấy sẽ bị chìm trong quên lãng!
Chiến
tranh đã qua đi, hoà bình đã mang lại bình yên cho đất nước. Trước khi dừng bút
tôi mong rằng: “Con cháu chúng ta hãy giữ lấy những gì cha ông mang lại. Đừng
bao giờ cúi đầu khuất phục trước kẻ
khác. Hãy làm cho dân hạnh phúc, giữ cho đất nước trường tồn, hãy luôn nhớ câu “Dĩ bất biến ứng vạn biến”, “Không có gì quý
hơn độc lập tự do”.
Bắt đầu viết 2/1/2013 kết thúc 27/07/2013
Hạ
sĩ Nguyễn Thành Sự
A
Trưởng A1, B1 Đoàn 672 D371
F351
Pháo Binh (1971-1973)
Còn đây:
Còn đây:
- B72 của D371 đã làm xe tăng, thiết giáp địch một thời khiếp vía
Hết
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét