24 thg 12, 2013

“Người dân chờ đợi sự thay đổi lâu quá rồi, đòi hỏi về sự thay đổi bây giờ lớn quá rồi”

honngv: Mình khoái bài này. Nên dù nó đã được QuêChoa đăng và ai cũng đọc đc nó ở đó mình vẫn muốn cọp về đây, kể cả Lời dẫn chuẩn kg cần chỉnh của NQL.

Phỏng vấn bà Phạm Chi Lan kỳ 1& Kỳ 2
Huỳnh Phan thực hiện
 TheoVnn 
 NQL: Thời buổi " Lợi ích nhóm" các  chuyên gia kinh tế cũng chạy theo " lợi ích nhóm". Có khoảng vài chục chuyên gia kinh tế hay đăng đàn diễn thuyết nhưng số chuyên gia đáng tin không đếm hết đầu ngón một bàn tay, bà Phạm Chi Lan là một trong số hiếm hoi đó: Một tiếng nói hiểu biết, trung thực, điềm tĩnh và chính chắn, chỉ vì dân không vì ai khác. 
Nhân đây xin hoan nghênh Huỳnh Phan. Trong năm Huỳnh Phan đã có nhiều bài dịch và phỏng vấn rất hay!
Nhân chuẩn bị kết thúc năm 2013, năm được coi là năm bản lề của kế hoạch 5 năm 2011-2015,  Tuần Việt Nam có bài phỏng vấn chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan về những đánh giá của bà. 
Kỳ 1: Vinashin giải thể, nợ để ai trả?
Nông dân không có động lực làm nông
Xin bà cho biết những nét nổi bật của kinh tế Việt Nam trong năm 2013.
Tôi nghĩ rằng về cơ bản kinh tế Việt Nam trong năm 2013 vẫn tiếp tục gánh chịu những khó khăn của mấy năm trước dồn lại, và dù có cố gắng khắc phục cũng chưa tạo được những cải thiện rõ rệt. Một số chỉ số kinh tế vĩ mô được chính phủ đưa ra cho thấy có nhích hơn năm ngoái như tăng GDP, giảm lạm phát, tăng xuất khẩu, thu hút FDI..., nhưng bên cạnh các chỉ số được cải thiện thì cũng có những mặt tiếp tục xấu đi.
Trong những điều đáng lo ngại, theo tôi, đầu tiên là nông nghiệp và nông dân.
Trong năm nay có một số báo cáo được đưa ra về phát triển nông nghiệp và cuộc sống của nông dân, nói chung đều cho thấy nông nghiệp rất khó khăn, thu nhập thực tế của đông đảo nông dân trong mấy năm qua bị giảm xuống theo đà lạm phát, và mức tăng giá các loại chi phí đầu vào cho sản xuất nông nghiệp. Giảm mạnh nhất là thu nhập từ nông nghiệp của số lớn hộ nông dân, bây giờ chỉ chiếm chưa tới 30% tổng thu nhập của họ.
Điều đó nói lên cái kẹt của nông nghiệp và cuộc sống của nông dân. Và điều đó có thể khiến người nông dân không có động lực để tiếp tục làm nông nghiệp nữa.
Tình trạng này cũng giải thích vì sao năm nay rộ lên câu chuyện nông dân bỏ ruộng. Việc bỏ ruộng diễn ra ở rất nhiều nơi, kể cả những nơi vốn dĩ thiếu ruộng như miền Trung, hay Thái Bình và các tỉnh ở khác đồng bằng Bắc Bộ.
Điều đó có những nguy cơ gì về lâu dài trong sản xuất và xuất khẩu lúa gạo hay không?
Đối với sản xuất lúa gạo của cả nước, kể cả xuất khẩu, thì trước mắt điều này chưa đáng lo lắm, bởi chỉ riêng đồng bằng sông Cửu Long đã đủ nuôi cả nước và xuất khẩu, và khi nào đồng bằng sông Cửu Long còn trồng được lúa thì chúng ta còn yên tâm. 
Tất nhiên về trung hạn và lâu dài thì vẫn phải lo nguy cơ đồng bằng sông Cửu Long cũng không còn trồng lúa được nữa vì bị nhiễm mặn do sự khai thác quá mức nguồn nước ở đầu nguồn con sông và nước biển dâng do biến đổi khí hậu.
Nhưng hiện tượng nông dân bỏ ruộng phản ánh một thực tế là nông nghiệp ở nhiều vùng năng suất quá thấp, chi phí quá cao, lợi ích mang lại cho người nông dân quá hạn hẹp và do vậy không có khả năng cạnh tranh để tồn tại và động lực để phát triển.
Mức tăng trưởng nông nghiệp của cả nước trong mấy năm vừa rồi đã giảm chỉ còn 2,6-2,7% từ mức tăng 3-4% trong nhiều năm trước. Có rất nhiều lý do cho tình hình này, từ mức đầu tư quá thấp cho nông nghiệp, đến vấn đề đất đai, tổ chức sản xuất nông nghiệp, cơ cấu sản phẩm, công nghệ sản xuất, thương mại nông sản..., bên cạnh những tác động tiêu cực của thiên tai và việc mất đất nông nghiệp cho công nghiệp hóa, đô thị hóa.
Nói chung, nhiều điều kiện thuận lợi về tự nhiên, về thị trường và chính sách cho nông nghiệp đã mất dần tác dụng của nó và đứng trước thách thức phải thay đổi để tạo nên hệ thống mới kích thích phát triển nông nghiệp một cách lâu dài, bền vững hơn. Và điều quan trọng nhất để phát triển nông nghiệp, theo tôi, là phải đảm bảo cho người nông dân sống được và sống ngày càng khá giả lên bằng nông nghiệp, chứ mục tiêu của nông nghiệp đối với nông dân không thể chỉ là xóa đói giảm nghèo.
Còn đối với nền kinh tế thì hậu quả là nếu nông nghiệp suy giảm, nền kinh tế sẽ mất một nền tảng quan trọng. Nông nghiệp vừa là an ninh lương thực cho đất nước 90 triệu dân, vừa là nguồn hàng xuất khẩu lớn mang lại 27-28 tỉ đô la mỗi năm cho Việt Nam, vừa là nơi cung cấp lao động và sản phẩm cho các ngành công nghiệp, dịch vụ.
Nông nghiệp còn là bệ đỡ cho nền kinh tế nước ta mỗi khi có khủng hoảng, như thời kỳ khủng hoảng tài chính ở châu Á cuối thập kỷ 1990, hoặc những năm khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008-09 vừa qua. Những lúc đó, nông nghiệp vừa giúp an ninh lương thực, tăng trưởng xuất khẩu, vừa giúp nền kinh tế đỡ gánh nặng về thất nghiệp khi những người xuất thân từ nông thôn đi làm việc trong công nghiệp, dịch vụ có thể quay về với nông thôn, nông nghiệp để nương tựa lúc khó khăn.
Phạm Chi Lan, kinh tế, Việt Nam, Đồng bằng sông Cửu Long
Ruộng của bà con nông dân xã Thiệu Giao, huyện Thiệu Hóa (Thanh Hóa) bỏ hoang cho cỏ mọc nhiều năm nay - Ảnh: Hà Đồng
Ai sẽ trả nợ cho Vinashin?
Tức là mọi chuyện bây giờ phụ thuộc vào sự phát triển của công nghiệp - dịch vụ, bởi lối quay về nông nghiệp là không còn nữa?
May là điều này chỉ đúng với những người đang bỏ hẳn ruộng đồng. Tôi hy vọng chương trình tái cơ cấu nông nghiệp được thực hiện một cách nghiêm chỉnh, trên tinh thần thực sự "giác ngộ" về trách nhiệm đối với nông dân, lấy lợi ích của nông dân làm trọng tâm, coi nông dân là chủ thể, sẽ giúp khắc phục những vấn đề của nông nghiệp và lấy lại vị thế xứng đáng của nông dân, nông nghiệp trong phát triển kinh tế-xã hội của nước nhà. Cần nhớ dù nông nghiệp chỉ còn là 20% GDP, nhưng vẫn là hơn 25% kim ngạch xuất khẩu, và nhất là thu hút 50% lực lượng lao động và gắn với số phận của khoảng 65% dân số cả nước sống ở nông thôn.
Công nghiệp - dịch vụ thì rõ ràng là quan trọng rồi, vì các ngành này mà không phát triển, hay thụt lùi, thì sẽ gây ra những vấn đề kinh tế - xã hội vô cùng lớn. Và đấy là mối lo thứ hai của tôi, từ góc độ nhìn vào những "nhân vật" chính đang hoạt động trong hai lĩnh vực đó.
Cục Đăng ký Kinh doanh (Bộ Kế hoạch - Đầu tư) đã công bố có 54.932 doanh nghiệp ngưng hoạt động trong 11 tháng đầu năm nay, tăng so với hơn 54.200 doanh nghiệp đóng cửa năm trước. Biểu đồ doanh nghiệp ngưng họa động tiếp tục đi lên từ 40 ngàn năm 2010 đến 53 ngàn năm 2011, 54 ngàn năm 2012 và 55 ngàn năm 2013.
Biểu đồ đi lên nói lên điều gì? Tất cả những khó khăn của doanh nghiệp kéo dài đến nay vẫn chưa được giải quyết về cơ bản. Thêm một cái đau nữa là càng về sau thì chúng ta càng mất đi những doanh nghiệp khá hơn, vì có những đơn vị đã có thể trụ được suốt từ khi kinh tế suy giảm năm 2008 tới giờ nhưng vẫn không thoát nổi trận đào thải doanh nghiệp dữ dội lần này.
Với số lượng doanh nghiệp ngừng hoạt động như vậy, số lượng người mất việc làm là bao nhiêu?
Tôi không biết, vì các cơ quan không công bố. Tôi nghĩ Cục Đăng ký Kinh doanh có số liệu đăng ký về việc làm cũng như các thông số cơ bản của tất cả các doanh nghiệp. Lẽ ra mỗi khi tổng hợp về số doanh nghiệp ngưng hoạt động, họ phải đưa ra cả những thông tin liên quan như các doanh nghiệp đó thuộc những ngành nào, qui mô nhỏ, vừa, hay lớn, thuộc thành phần kinh tế nào, vốn đầu tư bao nhiêu, số người mất việc làm là bao nhiêu, lý do chính đẩy doanh nghiệp tới quyết định đóng cửa là gì...
Nếu có được những thông tin như vậy, các nhà làm chính sách mới biết được bức tranh thực của doanh nghiệp, biết ngành nào, khu vực nào khó khăn nhất, tác động đối với lực lượng lao động, với các ngành kinh tế và điều kiện vĩ mô ra sao, để có những chính sách cụ thể phù hợp. Nhưng rất tiếc là không có những thông tin, số liệu đó, còn tại sao thì tôi không hiểu.
Tuy nhiên, thông thường về lao động chúng ta có thể dựa vào con số đã có từ trước, là bình quân mỗi doanh nghiệp sử dụng 20 lao động để nhân với 55 ngàn doanh nghiệp đóng cửa là biết. Còn con số do các cơ quan lao động đưa ra là mỗi năm tạo thêm được cả triệu việc làm, thì tôi không biết từ nguồn tuyển dụng  nào. Chính một số đại biểu quốc hội đã chất vấn điều này, và họ nói rằng họ không tin vào những con số đó, vì nó không có cơ sở.
Cục Quản lý Kinh doanh cũng công bố số doanh nghiệp đăng ký kinh doanh mới trong 11 tháng đầu năm nay là hơn 60 ngàn. Nhưng thực sự đâu phải tất cả các doanh nghiệp này đã hoạt động, vì vậy trong số lao động họ tuyên bố tuyển dụng vẫn không ít người thực tế chưa có việc làm. Mọi chuyện phải chờ đến khi họ vận hành thực sự, hoặc chạy đủ công suất thì các con số mới có ý nghĩa thực.
Tình hình nông nghiệp và doanh nghiệp như vậy đã tác động trực tiếp tới đời sống của người dân và sức mua của thị trường trong nước. Nhà nước đã điều chỉnh tăng lương, nhưng còn bao người mất việc làm cùng hàng chục triệu người trong khu vực nông nghiệp và doanh nghiệp phi chính qui không thuộc diện làm công ăn lương, nên giá cả tăng hoặc đứng ở mức cao vẫn đánh nặng vào thu nhập của họ. Vì vậy việc tiêu thụ hàng hóa trên thị trường trong nước nhìn chung vẫn tiếp tục khó khăn.
Thế tại sao chính phủ báo cáo là tồn kho giảm xuống? 
Có một lý do rất lớn khiến tồn kho giảm là số lớn doanh nghiệp còn hoạt động cho biết họ giảm công suất rất đáng kể. Sự giảm công suất gây lãng phí lớn trong năng lực sản xuất của xã hội và không khuyến khích, thậm chí cản trở đầu tư mới của doanh nghiệp. Đầu tư ít thì cầu lại không thể tăng nhiều.
Ngân hàng Thế giới trong báo cáo mới công bố cũng nhận xét rằng Việt Nam trước nay tăng trưởng dựa rất nhiều vào cầu nội địa, nhưng chưa bao giờ cầu nội địa lại tăng thấp như năm nay, ở mức chỉ khoảng 6,5% so với mười mấy phần trăm trước đây. Họ lo ngại cho sự phục hồi của chúng ta về điều đó.
Thế bức tranh kinh tế năm nay toàn sự ảm đạm thôi sao? 
Nói chung, năm nay bức tranh kinh tế vẫn còn ảm đạm. Tuy rằng, ngoài GDP, lạm phát, xuất khẩu, FDI..., cũng có những con số khác được báo cáo là tốt hơn, như nợ xấu ngân hàng giảm xuống, hoặc nợ của doanh nghiệp nhà nước (DNNN) 1,3 triệu tỷ đồng, thấp hơn con số 1,7 triệu tỷ đồng của năm ngoái.
Tuy nhiên rất tiếc rằng không có sự giải thích hợp lý về các con số giảm nợ đó, nên vẫn gây nghi ngại. Chẳng hạn giảm nợ xấu của ngân hàng có giảm thật không, bởi vì chỉ khi người vay nợ trả bớt nợ thì mới coi là giảm nợ, chứ chuyển nợ từ tài khoản này sang tài khoản khác thì cũng không có ý nghĩa gì. Hoặc là bán nợ cho Công ty VAMC cũng là cách để chuyển nợ từ chỗ này sang chỗ kia thôi, bản thân khoản nợ đó vẫn chưa mất đi được. Việc giảm nợ xấu nếu không được thông báo đầy đủ có thế gây tâm lý chủ quan và tiếp tục tăng đầu tư một cách thiếu cẩn trọng.
Về nợ của DNNN tôi cũng chưa thấy các giải pháp đủ mạnh để giải quyết thực sự. Ví dụ, Vinashin giải thể và thành lập SBIC, thì khoản nợ to tướng của Vinashin ai trả?
Kỳ 2: Vẫn ham hố dự án lắm tiền nhiều của
Sau phần 1, Tuần Việt Nam tiếp tục cuộc trò chuyện với chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan.

Giảm đầu tư công không phải do tái cơ cấu
Thế còn về tái cơ cấu nền kinh tế mà nhiều chuyên gia đã lên tiếng?
Đó chính là mối lo thứ ba của tôi.
Các báo cáo và thảo luận tại hai cuộc Diễn đàn Kinh tế Mùa Xuân và Mùa Thu do Ủy ban Kinh tế của Quốc hội tổ chức, một cuộc nhìn lại một năm tái cơ cấu, một cuộc nhìn lại việc thực hiện những đột phá chiến lược, đều cho thấy tiến độ thực hiện tái cơ cấu và các đột phá chiến lược còn quá chậm chạp. Có lĩnh vực chưa tiến triển bao nhiêu, có lĩnh vực thậm chí chưa đưa ra định hướng chung.
Ví dụ?
Đầu tư công. Đến nay vẫn chưa có đề án tái cơ cấu đầu tư công.
Trong ba đột phá chiến lược thì gần đây mới đưa ra chủ trương cải cách giáo dục. Còn cải cách thể chế, lĩnh vực quan trọng và bao trùm nhất, thì chưa thấy có gì rõ ràng cả.
Đấy là mối lo lớn vì đã hơn nửa nhiệm kỳ của Đại hội Đảng XI rồi mà chưa khởi động được bao nhiêu, thì không hiểu 2 năm còn lại chúng ta sẽ làm được gì đây? Và rồi làm sao chiến lược 10 năm có thể thực hiện được.
Về việc này Chính phủ trả lời như thế nào?
Các báo cáo của các cơ quan chính phủ cũng giải thích là đã làm được việc này việc kia về tái cơ cấu. Chẳng hạn, về doanh nghiệp nhà nước (DNNN), họ nói là đang trong quá trình tái cơ cấu, Chính phủ đã phê chuẩn 68 đề án của các tập đoàn, tổng công ty và khoảng 100 đề án của các ngành, các địa phương về tái cơ cấu DNNN. Rồi các DNNN đang rà soát lại các ngành đầu tư ngoài ngành chính để thoái vốn…
Về đầu tư công, cũng có báo cáo là trong năm 2013 đã cắt giảm một số dự án, và tỷ lệ đầu tư đã giảm xuống, chỉ còn hơn 29% GDP.
Nhưng những giải thích đó không mấy thuyết phục. Bởi vì, ví dụ như cổ phần hóa, từ đầu năm đến giờ mới cổ phần hóa được 16 DNNN, rất chậm so với kế hoạch. Mặt khác việc để DNNN tự đưa ra đề án tái cơ cấu, cắt bỏ những lĩnh vực đầu tư ngoài ngành của mình cũng chưa ổn. Vì như thế khác nào DNNN tự chặt bớt tay chân của mình thì liệu có khả thi hay không.
Còn những nhân tố quan trọng khác của DNNN, như phải chấp nhận kỷ luật thị trường, áp dụng hệ thống quản trị hiện đại, hay cải cách hệ thống giám sát DNNN, thì cũng chưa đụng tới. Tức là chưa đụng tới được những cái cốt lõi nhất trong tái cơ cấu DNNN.
Đối với ngân hàng, họ nói đã giải quyết được 9 ngân hàng yếu kém, và đang sắp xếp lại nội bộ hệ thống ngân hàng. Nhưng cái cốt lõi nhất là giải quyết một cách căn cơ vấn đề nợ xấu, sở hữu chéo, kiểm soát rủi ro, và áp dụng hệ thống quản trị hiện đại trong toàn hệ thống ngân hàng thì vẫn còn đấy.
Tức là cách trả lời của các cơ quan không đi thẳng vào vấn đề tái cơ cấu, cái gì làm được, và cái gì chưa làm được, sắp tới phải làm?
Họ kể ra một vài đầu việc đã làm được để chứng minh quá trình tái cơ cấu đã bắt đầu, và đã có những thành tựu bước đầu rồi. Nhưng ngẫm cho kỹ có những việc không hẳn là thành tựu của tái cơ cấu.
Ví dụ như tái cơ cấu đầu tư công, thực tế là do nguồn vốn quá hạn hẹp nên tất yếu đầu tư công phải giảm đi. Năm nay, Quốc hội đã phải chấp nhận đề nghị của Chính phủ tăng mức bội chi ngân sách lên 5,3% GDP, thay vì 4,8% như chỉ tiêu đã đề ra hồi đầu năm, và phát hành thêm trái phiếu. Lý do chủ yếu là do thu ngân sách năm nay thấp so với dự toán, trong khi chi thường xuyên vẫn giữ ở mức quá cao, nên không còn bao nhiêu cho đầu tư công.
Như vậy, giảm đầu tư công năm nay không phải là kết quả của tái cơ cấu, mà do thiếu tiền. Tất nhiên Chỉ thị 1692 của Thủ tướng cũng thúc đẩy rà soát, cắt giảm một số dự án, nhưng đó vẫn chưa phải là đề án tổng thể cho tái cơ cấu đầu tư công. Quốc hội cũng vẫn còn đang bàn thảo về dự thảo Luật Đầu tư công, một luật được chờ đợi đã lâu để minh định các chính sách và nguyên tắc căn bản của đầu tư công.
Nhìn chung ham muốn đầu tư công còn rất lớn. Chính phủ và Quốc hội – những người có quyền và trách nhiệm quyết định đầu tư công – đều đồng ý về nguyên tắc phải nâng hiệu quả đầu tư công, chống dàn trải, lãng phí, giảm bớt đầu tư công, nhưng khi bàn cụ thể phần lớn các đại biểu lại không muốn cắt giảm ở ngành mình, địa phương mình. Và một số ngành vẫn rất ham hố những dự án lắm tiền nhiều của.
Nhìn chung ham muốn đầu tư công còn rất lớn. Chính phủ và Quốc hội – những người có quyền và trách nhiệm quyết định đầu tư công – đều đồng ý về nguyên tắc phải nâng hiệu quả đầu tư công, chống dàn trải, lãng phí, giảm bớt đầu tư công, nhưng khi bàn cụ thể phần lớn các đại biểu lại không muốn cắt giảm ở ngành mình, địa phương mình. Và một số ngành vẫn rất ham hố những dự án lắm tiền nhiều của.
Chẳng hạn ngành giao thông vận tải vẫn muốn làm đường sắt cao tốc. Nhưng họ rút kinh nghiệm, thay vì đề nghị làm cả một con đường dài tốn 56 tỷ USD mà Quốc hội đã bác, bây giờ họ đề nghị chia ra thành mấy đoạn để làm.
Rút cục, tổng của nó vẫn không thay đổi mà có khi còn tốn kém hơn.
Triển vọng trong năm 2014, theo bà, vẫn ảm đạm như 2013?
Tôi rất sốt ruột. Lúc này rất cần có một quyết tâm chính trị cao và quyết định dứt khoát từ lãnh đạo cao nhất của Đảng, Quốc hội và Chính phủ về việc phải tiến hành tái cơ cấu một cách khẩn trương và thực sự nghiêm túc, vượt qua những e ngại hay cản trở mà có lẽ ai cũng thấy.
Tôi được biết Chính phủ đang giao cho Bộ Kế hoạch – Đầu tư xây dựng đề án cải cách thể chế với tinh thần cải cách mạnh mẽ. Chắc hẳn Chính phủ và cá nhân Thủ tướng đều thấy những vấn đề của nền kinh tế trong mấy năm gần đây, cũng như những nguy cơ, nếu chúng ta không bứt ra khỏi được tình hình trì trệ như thế này để vượt mạnh lên trong những năm tới. Các vị đó hẳn cũng hiểu bao thách thức cũng như cơ hội mới trong hội nhập quốc tế đang đến rất gần.
Nếu như 2014-2015 Việt Nam không có chuyển động mạnh, thì kết quả của hội nhập quốc tế có thể lại tương tự như khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới WTO, tức là tiếp nhận thách thức nhiều hơn cơ hội do thiếu sự chuẩn bị để có đủ năng lực cần thiết.
Tôi cũng được biết Thủ tướng cũng đang yêu cầu các cơ quan soạn thảo nghị quyết về các giải pháp cho năm 2014 phải đề xuất những giải pháp hướng tới cả năm 2015, và có tính chất trung hạn hơn, chứ không chỉ nhằm giải quyết các vấn đề trước mắt, ngắn hạn, như cách đề ra giải pháp trong mấy năm vừa qua. Năm 2013, tái cơ cấu không được tiến hành bao nhiêu cũng một phần bởi ta cứ tập trung lo đối phó với những vấn đề nảy sinh trong từng thời gian ngắn, mà chưa lo giải quyết những vấn đề trung và dài hạn có tính chất căn cơ, gốc rễ.
Xin bà nói cụ thể hơn.
Đầu mỗi năm, Chính phủ thường ban hành một nghị quyết về các mục tiêu và giải pháp phát triển kinh tế-xã hội cho năm đó. Từ năm 2010 đến 2013, trong bối cảnh bất ổn kinh tế vĩ mô, lạm phát cao, mục tiêu số một của các nghị quyết hàng năm luôn là kiềm chế lạm phát – ổn định kinh tế vĩ mô; số hai là hỗ trợ phục hồi sản xuất kinh doanh, hay cải thiện môi trường kinh doanh… Và các giải pháp để ổn định kinh tế vĩ mô, giảm lạm phát được đưa ra chủ yếu thường là ngắn hạn, để cắt nhanh cơn lạm phát.
Thế nhưng, để ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát về dài hạn thì phải giải quyết tận gốc, cũng là phải tái cơ cấu kinh tế, nhất là tái cơ cấu 3 lĩnh vực đầu tư công, hệ thống tín dụng và doanh nghiệp nhà nước. Nhưng trong mấy năm vừa qua, việc đó chưa được quan tâm đầy đủ. Vì vậy kết quả thực hiện các nghị quyết hàng năm đều bị hạn chế, những khó khăn cứ kéo dài năm này sang năm khác.
3

Chỗ nào cũng có cả đống vấn đề nóng

Tại sao Ủy ban Kinh tế Quốc hội đã nhận thức rõ được vấn đề của tái cơ cấu và các giải pháp đột phá, thể hiện qua chủ đề của hai diễn đàn Mùa Xuân và Mùa Thu. Nhưng khi ra đến Quốc hội, dường như chúng lại bị lẫn vào các chủ đề khác, và chất vấn các thành viên Chính phủ đều là những câu hỏi ngắn hạn?
Câu chuyện hàng ngày của cử tri hoặc của các địa phương, nhất là những chuyện “nóng”, thường là mối quan tâm của các đại biểu Quốc hội vốn dĩ đại diện cho từng địa phương. Mặt khác, đại biểu Quốc hội nước ta phần lớn là không chuyên trách, tức là đang làm việc ở một nơi nào, ngành nào đó, nên cũng thường hay nghĩ và nói về nơi, về ngành của mình hơn. Mà trên đất nước ta bây giờ có nơi nào, ngành nào không có cả đống vấn đề nóng, thậm chí rất nóng!
Nhưng nếu Quốc hội không tập trung bàn vào các vấn đề gốc rễ hơn từ một cái nhìn xa và rộng hơn, trên cơ sở đó tập trung chất vấn, đòi hỏi Chính phủ phải đáp ứng những yêu cầu lớn hơn của đất nước, cơ bản hơn của nhân dân, thì các vấn đề ngắn hạn của cử tri sẽ tiếp tục nảy sinh, và Quốc hội cứ phải rượt đuổi hoài theo chúng.
Tôi cũng buồn khi chứng kiến những gì mà Ủy ban Kinh tế đã đưa ra rất đúng, rất trúng trong các diễn đàn kinh tế hàng năm, mà ra đến kỳ họp Quốc hội thì lại bàn quá ít. Không biết do thời gian hạn hẹp hay cách nghĩ, cách chọn lọc, sắp xếp ưu tiên cho các mục tiêu và chương trình làm việc của Quốc hội?
Hay khi bàn về nghị quyết cho năm sau, Quốc hội cứ lo nhiều quá về chỉ tiêu tăng trưởng GDP, lạm phát bao nhiêu phần trăm là vừa, để rồi lại phải tính ngân sách bao nhiêu là đủ. Trong khi đó, hầu hết các chuyên gia trong và ngoài nước đều cho rằng bao nhiêu phần trăm tăng trưởng hay lạm phát không quan trọng bằng những chính sách cần đổi mới, những biện pháp cần thực hiện để có tăng trưởng khá hơn, lạm phát thấp hơn mà không tốn quá nhiều tiền thuế của dân, nguồn lực của đất nước.
Điều này, các chuyên gia như bà, có nói thẳng với Ủy ban Kinh tế của Quốc Hội không?
Có chứ. Và cái hay nhất của Ủy ban Kinh tế của Quốc hội là tại các diễn đàn họ mời tất cả các chuyên gia, cả trong các tổ chức nhà nước và chuyên gia độc lập, đến. Ủy ban rất lắng nghe các ý kiến khác nhau, chấp nhận tranh cãi ra trò trong các cuộc đó để làm rõ các vấn đề quan tâm. Các chuyên gia thì rất tâm huyết, đưa ra nhiều bài viết với kết quả nghiên cứu công phu, thuyết phục, và khi phát biểu thì phần lớn vừa có lý có tình, vừa rất thẳng thắn, bộc trực.
Tôi thấy những người lãnh đạo Ủy ban Kinh tế Quốc hội từ trước đây như ông Hà Văn Hiền, hay hiện nay như ông Nguyễn Văn Giàu, ông Nguyễn Văn Phúc, đều thực sự thấu hiểu các vấn đề kinh tế-xã hội của nước nhà theo nghĩa rộng và chiều sâu của nó. Hay bà Nguyễn Thị Kim Ngân, Phó Chủ tịch Quốc Hội, đã tham gia chủ trì mấy kỳ diễn đàn, cũng lắng nghe rất chăm chú, và các câu hỏi, nhận xét, kết luận của bà đã chứng tỏ bà rất hiểu vấn đề. Chỉ tiếc rằng từ các vị này hay Ủy ban Kinh tế đến nghị trường lại có những khoảng cách…
Bà có niềm tin vào quyết tâm của Chính phủ trong năm tới?
Khi tham gia một số cuộc làm việc của các cơ quan được Thủ tướng đặt bài để đề xuất các phương hướng, hoặc giải pháp thực hiện những đề án cải cách mới, tôi cảm nhận có sự quyết tâm và đòi hỏi phải tạo cho được những thay đổi mạnh mẽ và có tính chất dài hạn hơn trong năm tới.
Tôi mong chờ, và hy vọng có thể đạt được điều đó, dù biết rằng còn vô vàn trở ngại. Bởi người dân chờ đợi sự thay đổi lâu quá rồi, đòi hỏi về sự thay đổi bây giờ lớn quá rồi. Trong các ngành khác nhau, ở các địa phương khác nhau, trong từng tổ chức, doanh nghiệp, từng người dân, ai cũng trông chờ sự thay đổi, một cuộc “đổi mới lần thứ hai” thực sự.
Những thay đổi trên thế giới và trong khu vực, những cuộc hội nhập kinh tế sắp tới cũng không cho phép chúng ta chần chừ lâu hơn nữa. Không thay đổi, chúng ta không chỉ mất thời cơ, mà còn có thể lâm vào nguy cơ tụt hậu xa hơn và lạc khỏi quỹ đạo phát triển của thế giới ngày nay.
Vì vậy tôi mong những người ở cấp chóp bu sớm bắt tay khởi động mạnh mẽ quá trình đổi mới vô cùng cấp thiết lần này. Nếu làm được thì có thể lấy lại niềm tin, khơi dậy tinh thần, nhuệ khí của cả nước, cả dân tộc, và nhận được sự ủng hộ của cả cộng đồng quốc tế. Đặt lợi ích của người dân, của đất nước, của dân tộc lên trên hết, nhất định chung ta sẽ làm được.
Xin cám ơn bà


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét