Cái quan trọng nhất không phải chúng ta không muốn sử dụng nhân tài mà là chúng ta không có khả năng sử dụng họ.
Trần Văn Tuấn
Tôi
có một người bạn lấy bằng Tiến Sĩ tại một trường ĐH có tên tuổi ở xứ Cờ
Hoa. Khi về nước anh chỉ có một ước mơ rất đơn giản - làm việc và sống
được bằng nghiên cứu khoa học! Khi đó anh rất tự tin vào những gì mình
đã học được có thể đóng góp và tạo ra những thay đổi tích cực cho khoa
học nước nhà.
Sau hơn một năm bắt tay vào thực hiện các đề tài khoa học cấp Bộ, cấp Nhà nước, bên tách cafe đắng, anh chia sẻ: "Tôi thấy người nước mình thực sự không trọng dân trí thức.".
Dù
đã có ít nhiều trải nghiệm thực tế, nhưng câu nói của một người bạn có
bằng TS lúc đó làm tôi có phần cảm thấy chua xót. Đồng ý rằng các ngành
khoa học của chúng ta sinh sau, đẻ muộn và không nhất thiết phải bắt đầu
từ con số 0. Thế nhưng, kể cả muốn đi trước đón đầu, chúng ta cũng cần
phải học để biết cần đón ở đâu và đi đến đâu. Một khi nền tảng khoa học
không có thì mọi thứ chúng ta tiếp thu và ứng dụng được chỉ đều là phần
nổi, phần ngọn và cũng chính vì vậy mà đất nước luôn tụt lại phía sau và
mãi mãi chạy theo người khác.
Khi nhìn
lại các sự kiện gần đây, tôi mới thấm thía những điều mà anh bạn tôi bộc
bạch. Ngân sách hàng năm dành cho nghiên cứu khoa học vốn đã rất khiêm
tốn (chỉ chiếm 0,5% GDP) nhưng luôn bị cắt xén và thất thoát tại mỗi
cấp. Nếu muốn được duyệt một đề tài nghiên cứu có sử dụng ngân sách nhà
nước thì chi phí lobby đôi lúc lên đến vài chục phần trăm ngân sách đề
tài. Công sức bỏ ra để hợp thức hóa số tiền bị cắt xén này hầu như chiếm
gần hết thời gian của đơn vị nghiên cứu, khiến cho các sản phẩm đầu ra
đều không đáng tin cậy hoặc ở dạng nửa vời.
Thật
đáng buồn khi nhiều nhà nghiên cứu bỗng nhiên trở thành những nhà "chạy
dự án" chuyên nghiệp. Việc xem các đề tại Nhà nước như là một chiếc
bánh cho nhiều cá nhân và đơn vị để cải thiện thu nhập khiến cho đất
nước ta luôn vắng bóng những công trình tầm cỡ. Sự thiếu hụt các cơ chế
giám sát, tính minh bạch và trách nhiệm giải trình trong nghiên cứu khoa
học được xem như nguyên nhân chính khiến cho phần lớn các kết quả đề
tài không có tính ứng dụng trong thực tiễn nhưng vẫn được phê duyệt và
nằm yên, bám bụi trên các giá sách vốn đã rất bụi tại các cơ quan nhà
nước. Dù có thế nào thì cũng không ai phải chịu trách nhiệm.
Những
người làm khoa học không chuyên thì sao? Sự cứng nhắc, rập khuôn và
giáo điều của các cơ quan chức năng cộng với tính sính ngoại và tự coi
thường khả năng, trí tuệ của chính người nhà mình đã khiến cho bao nhiêu
nông dân và kể cả doanh nhân phải ngửa mặt kêu Trời.
Sự
kiện hai cha con ông Hải phải tìm đường sang Campuchia để thỏa mãn khát
vọng được cống hiến cho khoa học liệu có khiến cho những người có trách
nhiệm thấy chua xót ít nhiều? Hay phải chăng sức ép dư luận trong những
ngày qua cũng chỉ là một vài hòn đá ném xuống cái ao bèo, để rồi nhanh
chóng bị những cánh bèo dày đặc kia khỏa lấp?
Theo
số liệu thống kê, trên tổng số hơn 90 triệu dân hiện thời, VN có tới
hơn 100 nghìn người có bằng Thạc sĩ (trình độ được xem là nghiên cứu
viên) và hơn 25 nghìn người có bằng Tiến sĩ. Những con số ấn tượng này
khiến tôi nghi ngờ nhận định của anh bạn mình khi cho rằng "Trí thức Việt không được trọng dụng và chỉ dùng để trang trí mà thôi!"
Nếu thực sự chỉ dùng để trang trí thì quả thực đất nước ta có thể xếp
vào loại xa xỉ nhất thế giới khi sử dụng một nguồn lực khổng lồ như vậy
chỉ để mà chơi và trang hoàng cho đẹp mắt.
Vậy
nếu không chỉ để mà chơi hay cho vui mắt thì tại sao trung bình hàng
năm Việt Nam có số lượng ấn phẩm khoa học được duyệt và đăng trên các
tạp chí khoa học Quốc tế chỉ bằng 1/5 của Thái Lan và 1/10 của
Singapore. Riêng trên tạp chí Nature, thì trong mười năm qua
chúng ta chỉ có 5 ấn phẩm khoa học trong nước được đăng trên tạp chí
hàng đầu thế giới này. Đồng ý rằng, dân ta có nhiều người học TS chỉ để
cho oai, vậy con số khoảng 9.000 GS, PGS với phân nửa số lượng TS đang
là giảng viên ĐH hay nghiên cứu viên tại nước ta đang làm gì và được
dùng vào việc gì? Hay lại là để cho đẹp đội hình?
Thời
Hoàng Đế Lê Thánh Tông, nước Đại Việt của chúng ta có thể được xem là
hùng cường bậc nhất trong lịch sử Phong kiến. Có lẽ ý thức được nguyên
tắc "hiền tài là nguyên khí Quốc gia" nên nhà Vua đã tạo dựng được một
triều đại huy hoàng đến vậy. Tuy đời sau ít nhiều thấm nhuần tư tưởng
này nhưng chưa ai làm được những gì mà "Vị Hoàng Đế mở cõi" này đã làm.
Nguyên nhân thì có nhiều, nhưng theo tôi cũng giống như ngày nay, cái
quan trọng nhất không phải chúng ta không muốn sử dụng nhân tài mà là
chúng ta không có khả năng sử dụng họ.
Chúng
ta hiện vẫn còn thiếu rất nhiều thứ để có được một nền khoa học tiên
tiến. Cơ sở hạ tầng phục vụ nghiên cứu, thiết bị và kể cả ngân sách rồi
cũng có thể có được. Cái quan trong hơn, cấp thiết hơn lúc này chính là
cần phải xác định được mình thực sự mong đợi gì? Muốn làm gì và cần ưu
tiên cái gì? Chỉ đến khi những người có trách nhiệm thấu hiểu được khoa
học chính là con đường then chốt để thay đổi vị thế đất nước, rằng đất
nước ta không thiếu vắng nhân tài và rằng phải có tinh thần cầu thị, dám
chịu trách nhiệm, đức tính bao dung, không đố kị cùng một tấm lòng vì
đại cục, thì ngày đó đất nước ta sẽ có thể cất cánh bay cao.
Hơn
hết, dụng nhân như dụng mộc, hãy trả mọi người về đúng vai trò của họ,
nơi họ có thể sống, làm việc và cống hiến theo đúng khả năng của mình.
Hãy tạo dựng một môi trường phù hợp, khơi dậy sức sáng tạo của mỗi công
dân và sẵn sàng lắng nghe cũng như hành động, nhằm khích lệ kịp thời,
giúp tập hợp nguồn "nguyên khí Quốc gia" cho phát triển đất nước. Khi đó
nhiều cái tử tế sẽ theo về và tách cafe mỗi lần tôi uống với anh bạn
Tiến sĩ kia cũng sẽ đậm, ngọt hơn.
TRẦN VĂN TUẤN đã phân tích rất đúng, Đó là nội dung trả lời cho câu hỏi: nạn chảy máu chất xám của ta. và tại sao các nhân tài của ta lại không thể làm việc cho VN mặc dù họ rất muốn cống hiến sức lực cho đất mẹ
Trả lờiXóa