Gõ đại bởi honngv, 10/2012
Hơn 7 tuổi (1957-1958) bố mẹ mới cho tôi đi học vì tôi bé như con chim
chích. Tôi fải học hơn 1 năm lớp Vỡ lòng rồi mới lên lớp 1. Người thầy đầu tiên
dạy tôi biết chữ là người ngay trong làng tôi mà tôi gọi là chú theo tình nghĩa
hàng xóm láng giềng. Ông dạy học từ thời Pháp thuộc. Nay ông đã già yếu. Về gặp
ông nhúc nhắc cùng chiếc gậy tre trên con đường làng, nhắc lại thời dạy học
thẫm tình người ấy ông vẫn rưng rưng giọt nước mắt già nua.
Những con chữ đầu tiên ông dạy chúng tôi: “O tròn như quả trứng gà / Ô
thì đội mũ, Ơ thì thêm râu”. Chúng tôi vừa nhận mặt con chữ vừa tập viết. Ban
đầu thì tô theo nét chì của ông, sau tự viết. Tôi thường được ông giao cho việc
‘bắt tay’ giúp những đứa viết xấu hoặc chưa biết viết. Ngày ấy lớp Vỡ lòng chỉ
có học viết. Đứa nào viết còn nghệch ngoạc thường bị bắt giơ ngửa lòng bàn tay
ra để lĩnh đủ vài nhát thước và tất nhiên chưa được lên lớp 1. (Cứ theo chuẩn
này bọn con tôi dù giờ đã tốt nghiệp đại học cũng chưa chắc được học lớp 1 thời
ấy).
Năm 1964, tôi đang học cấp II, Mỹ bắt đầu ném bom miền Bắc. Hàng hóa cực
kỳ khan hiếm đến độ kg có vải để may quần áo. Chúng tôi đi học mặc quần nâu áo
vá là bình thường. Còn nhớ giấy không có mà viết, chúng tôi fải nhặt giấy cũ,
đem ngâm vôi cho bạc vết mực, fơi khô, viết tạm. Thầy cô chấm bài đến mờ mắt vì
giấy, chữ nhòe, nhưng vô cùng thương học sinh. Năm ấy cũng là năm các cơ quan
cấp huyện sơ tán về làng tôi. (Không ngờ dính đến ‘số kiếp’ tôi sau này). Rồi
đến dân Hải Phòng trong đó có các bạn học sinh cũng sơ tán về làng tôi, xã tôi.
Những trận bom Mỹ thả xuống cầu Phú Lương, đặc biệt cầu Lai Vu làm rung
chuyển cả làng tôi, vì làng chả cách cầu Lai Vu là mấy. Một tối, 1 ‘chú’ fi
công Mỹ chắc ‘buồn ngủ’, sau cú bổ nhào xuống ném bom cầu Lai Vu, lượn sát sạt
qua làng tôi và quăng nốt số bom còn lại để bay ra biển (hướng Hải Phòng) cho
nhẹ. Có người bảo do tối đó diễn ra cuộc họp của cán bộ huyện tại trường cấp
II, có gián điệp báo với Mỹ. Rõ là quan trọng hóa cho ‘thêm fần long trọng’.
Thế là làng tôi xơi trọn 1 vệt bom dài khoảng 500 mét, như vệt bom B52, kể từ
trường cấp II xã. Ngôi trường tôi đang học bay gần hết. Gia đình ông L không
còn người nào, không tìm được xác. Nhà và vườn của ông biến thành 1 hố bom sâu
to hơn Giếng Chùa Sơn. Cả làng, cả xã thức trắng đêm tìm kiếm cứu người. Ai
cũng nói ‘chú’ fi công Mỹ ấn nút bom sớm hơn cỡ 1 giây thôi thì hôm nay tôi chả
còn ngồi gõ thế này. Hú vía!
Việc làm ăn trong HTX chẳng đâu vào đâu, điển hình cho câu thành ngữ “Cha
chung không ai khóc”. Dân cơ cực hơn, nghèo hơn. Họ xoay ra làm nghề fụ. Một
vài nhà trong làng sắm vó bè đặt dọc bờ con sông nhỏ có tên mỹ miều: ‘sông
Quỳnh Khê’. Ông chú tôi cũng sắm 1 cái. Nhiều đêm thức trắng kéo vó bằng 1 sợi
chão to gần bằng cổ tay, fồng rộp hết 2 bàn tay mà sáng ra chỉ được ít cá vụn.
Ông còn kiêm luôn nghề đóng gạch (thủ công) và tất nhiên tôi trở thành thợ giáo
đất và đóng gạch thành thần với cái lưng đau nhức sau mỗi ngày làm việc.
Cùng lúc ấy, không hiểu ai làm đầu tiên, âu cũng là do ‘cái khó ló cái
khôn’, bọn trẻ chúng tôi bắt chước nhau làm 1 công việc thú vị nhưng không kém
fần vất vả: cất vó tôm. Những chiếc vó làm bằng vải màn cũ, hình vuông, khâu
rường mỗi chiều khoảng 5-60 fân. Bốn góc được cột chặt vào bốn đầu cùng của hai
thanh tre buộc vuông góc nhau tạo thành chiếc vó. Tôm đi ăn đêm nên fải cất vó
ban đêm. Cứ chiều đi học hay làm đồng về, luộc vội ít bánh khoai lang khô, rang
ít cám thơm làm mồi, mỗi thằng vác khoảng 2 chục chiếc vó đi rải dọc bờ sông,
mỗi cái cánh nhau vài đến hơn 10 mét. Phải đi xa mới nhiều tôm, nơi xa nhất gọi
là Đồng Diềng cách làng khoảng 3 cây số. Đêm tối đen như mực. Xa xa những đốm
sáng lập lòe như ma chơi. Tay xách ngọn đèn
dầu làm bằng chai thủy tinh đã cắt bỏ fần cổ, lò dò ì oặc men theo bờ sông.
Nhiều lần bị thụt hố ướt bẩn hết cả. Cứ nghỉ khoảng 5 đến 15 fút lại đi cất hết
1 lượt 20 chiếc vó. Tôm thu được trút vào ‘vịt’. Vịt được đan bằng tre giống
hình con vịt, 2 bên cánh buộc 2 ống tre rỗng để thả nửa nổi nửa chìm trên sông
cho tôm sống. Có lúc ngồi ngủ quên, tôm ăn hết cả mồi cám. Thường đến 2, 3 giờ
sáng hôm sau mới thu vó để về. Trên đường về, đứa nào cũng giành đi trước. Tôi
thấp bé nhẹ cân, đống vó ngấm nước nặng nên hay bị đùn xuống đi sau cùng cái
đoàn quân ‘thắng trận trở về’ ấy. Nhiều lần qua bãi tha ma bất thình lình tóc
gáy dựng ngược, tim đập thình thịch, vã hết mồ hôi. Sợ vãi linh hồn.
Thích nhất là đêm nào được cất vó tôm cùng em Quyên. Em là em gái cô giáo
dậy tôi môn văn, người Hải Phòng, sơ tán về trọ cách nhà tôi 1 mảnh vườn, lại
như chung ngõ. Em đang thời fổng fao nhưng duyên dáng trong cái vỏ nhỏ nhắn, tròn
lẳn, trắng trẻo đến độ tinh khiết như dễ vỡ. Đôi má căng hồng rõ mịn, nhìn đã
thấy thơm. 2 con mắt đen láy, những khi lúng liếng như bắn đạn vào tim người
đối diện. Nói năng nhẹ nhàng như gió thoảng, vâng vâng dạ dạ, rõ là con nhà gia
giáo. Quần áo so với bọn quê mùa chúng tôi thì như công chúa trong truyện cổ
tích. Tôi và 1 thằng bạn lớn tuổi nhất trong bọn luôn tranh giành nhau, mặc dù
còn bé. Nhưng tôi học giỏi hơn hắn lại hót bùi tai hơn nên em hay chơi với tôi.
Rủ em đêm cùng đi cất vó tôm, em chần chừ, suy nghĩ 1 hồi rồi đồng ý. Những lần
ấy em cầm đèn đi trước soi đường, tôi đi sau. Vài lần bảo em kỹ thuật cất vó
sao không gây động, tôm chưa kịp nhảy ra khỏi vó. Tay
nâng tay và nâng cần vó, mũi hít hít mùi tóc mùi áo em át mùi tanh của tôm rêu.
Lãng mạn hơn cóc ghẻ. Rồi em cũng thạo, tự mình làm được. Cất vó tôm là tiếp
xúc trực tiếp với sông với nước, lại đêm tối mịt mù, nên chuyện biết bơi là bắt
buộc. Em người thành fố, có lẽ chưa xuống nước bao giờ. Thành thử đương nhiên
tôi kiêm cả ‘huấn luận viên bơi lội’. Khốn khổ cho cái thân tôi trong những lần
dậy em bơi em lặn. Em, vô tư, con nít. Tôi, cũng con nít nhưng chẳng chịu vô
tư. Thật chẳng khác Trời đầy! Vậy nên chuyện 2 đứa chỉ trên trời dưới đất,
nhiều lúc chẳng ăn nhập gì. Nhưng em vui, em sướng, em hát suốt. Đi bên em nghe
rõ mùi thơm từ mái tóc, quần áo, da thịt, lòng như lửa đốt mà chẳng biết fải
làm sao. Hồi đầu năm (2012), họp đồng hương cấp III Kim Thành tại Hà Nội, em
đến. Tôi hỏi sao ngày ấy dám đi cất vó đêm với anh. Em nói vì tinh nghịch mà
thôi. Mất điện luôn. Rõ chán!
Vào năm 1967, 1968 gì đó, quê tôi bị 1 trận lụt lớn. Nước ngập ngang
tường nhà. Vì là tường đất nên đa số các nhà bị đổ. Cây cối ngả nghiêng úa héo
chết dần. Cả làng tôi chỉ còn cái nền nhà trường cấp II, rộng bằng sân bóng
mini bây giờ là nhô lên mặt nước. Người, trâu, lợn, gà cả làng chen chúc nhau
trên đó. Tất nhiên trong đó có bọn tôi và không thể không có em tôi, em Quyên ấy.
Bọn tôi nghỉ học, chặt chuối, ghép thành những cái bè, chở mọi thứ ra tập kết
trên nền trường. Sau đó ngày đêm chèo về làng bất cứ lúc nào, đến từng nhà nắm
tình hình để ra báo cho gia chủ. Tôi lại rủ em đi bè cùng vì em đã biết bơi.
Trong những ngày này chính em là người dạy tôi hát bài “Bài ca 5 tấn” của NS
Nguyễn Văn Tý – bài hát vừa mới ra lò rất fổ biến và fù hợp lúc bấy giờ. Trên
bè chuối, dập dình theo sóng, giữa biển nước mênh mông, hoàng hôn bao fủ, chỉ
có 2 đứa. Cứ từng câu em hát trước, tôi rống sau. Mắt tôi nhìn nơi đâu, đầu tôi
nghĩ cái gì, tiếng em hát như vọng như vang từ xa xăm đến làm sao tôi thuộc
được. Em ngây thơ, chả biết, chả hiểu cho tôi thành thử cứ ra sức gào, ra sức
dạy… Đầu năm vừa rồi gặp vẫn hỏi em còn nhớ cái ngày dậy anh ‘Bài ca 5 tấn’
không? Em nói nhớ chứ, nhớ chứ, quên sao được, lại còn thêm, sao ngày ấy anh
‘dốt’ thế? Nói giờ anh vẫn còn dốt, hôm nào dạy lại anh nhé. Cười.
Em được cái hay: viêc gì cũng làm, cũng bắt chước, lại quá ngây thơ.
Tôi cầm tay dậy em đánh chuyền (là trò chơi của con gái ở thôn quê), bắt em
theo ra sông lặn mò rong, đánh dậm, hôi cá dưới ao bùn ngập đến tận háng...
Buồn cười, con gái cành vàng lá ngọc, sinh ra và lớn lên ở thành phố, người lại
mảnh khảnh, dễ gẫy nên làm gì cũng chả bằng tôi làm cố. Nhưng tôi cố tình rủ em
làm mọi việc. Thế mà da em vẫn trắng, má em vẫn hồng, môi em vẫn mọng vẫn thắm.
Thế mới tài!
Khuc Hat Song Que
Trở về dòng sông tuổi thơ - Mỹ
Linh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét