Vũ Ánh / 03-01-2012
Vài dòng về tác giả: Tên thật là Vũ Ánh, sinh năm 1941,
còn có bút hiệu khác là Vũ Huy Thục. Trước năm 1975, từ 1964 phục vụ tại Hệ
Thống Truyền Thanh Quốc Gia đến sáng ngày 30-4-1975, với các chức vụ: phóng
viên mặt trận 7 năm, rồi trưởng phòng Bình Luận, Chánh Sự Vụ Sở Thời sự Quốc tế
và Quốc nội cho đến 10 giờ sáng 30-4-1975. Ngoài ra, tác giả còn cộng tác với
các nhật báo Dân Ý, Báo Đen và Sóng Thần vào những năm chiến tranh.
Sau 30-4-1975, đi tù cải tạo dưới chế độ Cộng sản 13 năm,
trong thời gian này bị nằm “chuồng cọp” mất 5 năm liên tiếp vì chống lại chế độ
lao tù và ấn hành tờ Hợp Đoàn (báo chui trong trại giam). Được thả về gia đình
với 5 năm quản chế, mưu sinh bằng lao động chân tay cho đến khi được định cư ở
Mỹ theo diện HO năm 1992.
Sang Mỹ, tác giả trở lại nghề báo và truyền thông: Nhật báo
Viễn Đông Kinh Tế Thời Báo (TTK), Nhật Báo Người Việt (TTK và Chủ Bút), cộng
tác với nhật báo Việt Herald. Đồng sáng lập đài Văn Nghệ Truyền Thanh (VNTT),
Việt Nam California Radio (VNCR) và làm việc ở đó 10 năm, cộng tác với Đài
Truyền Hình SBTN, hiện cộng tác với Tuần báo Sống, trong vai trò Cố vấn Biên
tập.
Gặp Huy Đức nhân một bữa tiệc tại
nhà một người bạn. Chúng tôi có trao đổi một vài câu chuyện. Đây là lần đầu
tiên tôi gặp anh dù rằng trước đó tôi thường đọc những bài của anh trên blog
Osin, có nội dung chỉ trích chế độ rất khéo léo và suy nghĩ sâu sắc. Huy Đức
sang Mỹ theo một chương trình nghiên cứu của Đại học Harvard, một đại học hiện
có khá nhiều sinh viên từ Việt Nam
qua theo học. Câu chuyện trao đổi liên quan đến nội dung một tác phẩm, đó là
“Bên Thắng Cuộc”. Tôi có nói với Huy Đức là đề tài mà anh đề cập tới rất tế nhị
và anh sẽ phải đi dưới hai lằn đạn. Bởi vì viết những gì dù dựa trên sự thật mà
bên thắng cuộc không thích, anh cũng sẽ “lãnh đủ” và viết ra những gì mà chỉ
một số người bên thua cuộc không thích, anh cũng sẽ bị biểu tình và họ sẽ lôi
gốc gác của anh ra mà xỉ vả. Lý do rất dễ hiểu: Kể cả bên thắng cuộc và bên thua
cuộc đều vẫn còn nhiều người chỉ thích “uống nước đường” chứ không thích người
nào nói sự thực hay chứng minh đó là sự thực.
Ít lâu sau tôi nhận được tập bản
thảo “Bên Thắng Cuộc” của Huy Đức và tập bản thảo dù dầy đến 680 trang, tôi vẫn
đọc một cách cẩn thận và có ghi chú. Tôi kết thúc trang cuối cùng vào đúng lúc
Đài BBC đưa ra bản tin phản ứng của độc giả đối với “Bên Thắng Cuộc”, ủng hộ
cũng như chỉ trích, phần lớn đều rất lịch sự. Tôi nghĩ chỉ cần phản ứng lịch sự
là được rồi, dù phản ứng bao gồm cả những lời chỉ trích, bởi vì chỉ trích lịch
sự, ôn tồn ở cái đất này giống như lá mùa thu.
Cảm tưởng của tôi đối với “Bên
Thắng Cuộc” của Huy Đức: Lần đầu tiên tôi được đọc tác phẩm của một nhà báo trẻ
trong nước viết với giọng văn bình thản, cố tránh những tĩnh từ vô ích, trích
dẫn có cân bằng và đối chiếu thận trọng. Mặc dù nội dung tác phẩm còn nhiều
khiếm khuyết khi Huy Đức viết về phần bên thua cuộc, nhưng ở vào thế hệ của anh
không thể tránh những lỗi này được và điều này theo tôi cũng không có gì là “big
deal” vì anh vẫn còn đầy đủ cơ hội hiệu đính lần xuất bản sau. Nhưng tại sao
lại là “Bên Thắng Cuộc” mà không là “Bên Thắng Trận”? Nguyễn Giang, trưởng ban
Việt ngữ của Đài BBC cũng đã có những thắc mắc này và tự lý giải nó bằng một tự
nhủ:
“Khi đọc bản thảo ‘Bên Thắng Cuộc’ (cả hai
tập), tôi băn khoăn không hiểu vì sao Huy Đức không đặt tựa cho sách là ‘Bên
Thắng Trận’ với tất cả sự oai hùng, hào khí cách mạng như truyền thông chính
thống vẫn nêu. Có phải trận chiến quân sự và ý thức hệ dù lớn lao đến đâu cũng
chỉ là một cuộc cờ vì trận chiến vì tâm hồn và tương lại Việt Nam vẫn chưa
chấm dứt?”.
Tôi cũng có những thắc mắc giống
như ông Nguyễn Giang, nhưng tôi tự lý giải theo cách nhìn khác. Trong một trận
banh, tỷ số các bàn thắng bại được ghi ngay trên bản và được dứt khoát quyết
định, bên bị loại không thể thể giải thích “tại”, “bị” hay “do… mà tôi thua”.
Nhưng cuộc chiến Việt Nam
là một cuộc chiến rất phức tạp. Những người Cộng sản Miền Bắc tấn công Miền Nam
Việt Nam
trước và dưới cái nhãn “giải phóng và thống nhất đất nước”. Miền Nam Việt Nam chống trả
dưới cái nhãn khác, đó là “tiền đồn của thế giới tự do”. Cả hai bên lao vào một
cuộc huyết nhục tương tàn với súng đạn hai bên chẳng do người Việt Nam
sản xuất. Chúng đến từ Nga, Tầu và Mỹ. Hai bên cứ thế mà lao đầu vào chém giết
nhau, trong khi ở các bàn hội nghị quốc tế, những siêu cường thương lượng về
ảnh hưởng của họ trên núi xương sông máu của nhân dân cả hai miền Nam Bắc. Đó
là lý do tại sao những người thức tỉnh nhận ra “cuộc cờ” khốn nạn ấy mà những
người nắm quyền lưc hiện nay ở Việt Nam không nhận ra? Huy Đức đã ghi ở trang
đầu của cuốn sách một nhận định ngắn ngủi của Nguyễn Duy nhưng đầy ý nghĩa “Suy cho cùng trong
mỗi cuộc chiến tranh, bên nào thắng thì nhân dân cũng bại”. Tôi cho
rằng những suy tưởng này chính là lý do khiến Huy Đức không dùng tựa đề bên
thắng trận mà dùng tựa đề “Bên Thắng Cuộc”. Chỉ cần dùng tựa đề này, Huy Đức
cũng đã can đảm rồi. Cậu bé chăn trâu ở một làng quê nghèo ở Hà Tĩnh ngày nào
nay đã thành danh trong nghề nghiệp báo chí với cái tên blogger Osin đang cố
gắng giữ sự tỉnh táo bằng cách học hỏi và nghiên cứu tại một trường đại học nổi
danh ở Mỹ là trường Harvard. Cuộc nghiên cứu chỉ kéo đài có một năm thôi, nhưng
tôi tin rằng ở ngôi trường vốn là mẫu mực cho nền tự trị đại học và suy nghĩ tự
do ấy đủ để cho những người bảo thủ phải thay đổi suy nghĩ của mình hay ít ra
là cũng làm mới lại suy nghĩ mà họ đã có từ trước.
Tôi muốn nhắc lại ở đây một điều
đã quá cũ, nhưng vẫn cứ phải khẳng định đây là loại tác phẩm chính văn căn cứ
vào những dữ kiện như cuốn “Bên Thắng Cuộc” một kiểu viết đòi hỏi phải có một
phương pháp làm việc mang nhiều tính chất sử học chẳng hạn như việc lựa chọn dữ
kiện, phỏng vấn những nhân chứng còn sống, sưu tầm những tài liệu của những
nhân chứng đã chết, phân tích (chứ không phải bình luận) những tài liệu, văn
kiện sưu tầm được, đi và nói chuyện với những nhân vật lịch sử có liên hệ hiện
còn sống. Xét đến những điều kiện để thực hiện tác phẩm rõ ràng Huy Đức đã đáp
ứng đầy đủ như anh đã trình bày trong Lời Nói Đầu và nội dung các chương của
tác phẩm. Làm được đầy đủ công việc này, phải mất 10 năm là điều mà tôi tin
rằng Huy Đức nói không ngoa.
Đọc một tác phẩm dầy như “Bên
Thắng Cuộc” với biết bao nhiêu dữ kiện lịch sử, nhiều cuộc phỏng vấn, nói
chuyện với những nhân vật, những nhân chứng lịch sử của cả hai bên, nhất là
phần chú thích (nhất thiết phải đọc cả phần chú thích này, bởi vì nó cung cấp
cho những luận đoán của người đọc nhiều chi tiết thú vị), người đọc phải mất
rất nhiều thời giờ, ngoại trừ, những người vì nghề nghiệp cần phải đọc hết
những trang sách trong thời gian ngắn nhất. Ví thử như Huy Đức viết “Bên Thắng
Cuộc” chỉ để thỏa mãn nhu cầu chính trị ca ngợi chế độ thì không cần phải 3 năm
để đọc tài liệu và 10 năm mới hoàn thành. Cho nên, việc tác giả dùng thời gian
hơn một thập niên để viết “Bên Thắng Cuộc” là có lý do của nó. Huy Đức cần phải
căn cứ vào cách làm của những nhà văn viết ký sự dựa theo dữ kiện lịch sử để
bảo đảm tính “không dễ dãi với cách nhìn những gì đã từng xảy ra trên đất nước
Việt Nam”.
Đọc “Bên Thắng Cuộc” từ trang đầu đến trang cuối, người đọc có thể thấy nỗ lực
của Huy Đức cố gắng không để cho tác phẩm của mình trở thành những ly nước
đường cho cả bên thắng cuộc lẫn bên thua cuộc, dù những cố gắng của anh chỉ có
giới hạn. Hãy đọc Huy Đức viết trên
trang Facebook lập ra cho cuốn sách:
“Tôi mong các nhà lãnh đạo hiện nay đọc Bên
Thắng Cuộc cho dù họ đánh giá cuốn sách như thế nào. Nhận ra những sai lầm để
‘đưa dân tộc Việt Nam
đi đúng con đường dân chủ, phát triển’ là mong ước của chúng ta. Nhưng tương
lai dân tộc không thể chỉ trông cậy vào một cuốn sách hay chỉ trông cậy vào
những nhà lãnh đạo ở bên thắng cuộc.”
Ý kiến mà tôi vừa trích dẫn chỉ
là một phần nhỏ trong phần trả lời của tác giả đối với những phản ứng hay ý
kiến của độc giả mà tác giả đặt tên là
“Không thể cứ trú ngụ trong sự sợ hãi”. Đài BBC ghi lại một câu hỏi khá
quan trọng, đó là “liệu ông có sợ những điều không hay xảy ra với ông vì vi
phạm các qui định của Đảng và Nhà Nước”, Huy Đức đã thẳng thừng:
“Tôi không nghĩ là mình nằm trong phạm vi điều
chỉnh các qui định đó. Tôi ý thức được những việc gì mình đang làm. Sự thật
không chỉ giúp chúng ta tìm ra những
phương thuốc đúng để chữa lành các vết thương cũ mà còn giúp những người đang
nắm vận mệnh quốc gia không vi phạm những sai lầm mới. Không ai muốn hứng chịu
những điều không hay nhưng nếu cứ trú ngụ trong sự sở hãi thì sự thật sẽ không
bao giờ được nói ra, bạn ạ!”
Huy Đức có thể trình bày suy nghĩ
của mình về đứa con tinh thần được kể là quan trọng của anh khi chính quyền mà
anh đang sống với chưa có dấu hiệu gì muốn nhìn nhận những sự thật mà anh trình
bày trong “Bên Thắng Cuộc” là vì những lý do như anh đã viết trên Facebook.
Những đoạn trong tác phẩm mà tôi cho rằng quan trọng và người Việt ở hải ngoại
nên đọc chính là những đoạn mà tác giả tổng hợp được cách nhìn về mọi phía và
về các bên lâm chiến từ giai đoạn lực lượng Cộng Sản tiến vào Saigon và thời kỳ
quân quản, hiệp thương thống nhất hai miền Nam Bắc.
Nhưng sau ngày 30-4-1975, thảm kịch
diễn ra từ việc trả thù những sĩ quan công chức, cảnh sát VNCH cho tới việc
đánh tư sản, tiêu diệt văn hóa văn nghệ tự do, qui kết loại trừ tư bản Tầu Chợ
Lớn, cưỡng bức người dân thành phố đi kinh tế mới, cuộc chiến với Khmer Đỏ cùng
với những nỗ lực được mệnh danh là “duy ý chí” nhằm áp đặt các mô hình kinh tế
xã hội chủ nghĩa bao cấp trên cả nước với chế độ khẩu phần khắt khe đưa đến
thảm họa nhân đạo và sự suy sụp kinh tế.
Nguyễn Giang, trưởng ban Việt ngữ
đài BBC nhận định về văn phong của Huy Đức
trong các chương nói trên: “Ở các chương này, ngòi bút Huy Đức tỏa sáng trong giọng văn
âm thầm, cố gắng giữ vẻ bình thản nhưng bên trong sôi sục, thậm chí có chỗ
nghẹn đi vì những biến cố đau đớn cho hàng triệu người mà anh chứng kiến cận cảnh, nhất là tâm thức
một người đi bộ đội và từ Bắc vào Nam”.
Ngay từ những dòng đầu tiên, niềm
đau ấy, tâm thức ấy được phản ảnh như dưới đây về một sự thực ở Miền Nam Việt Nam.
Sự thực ấy khác những điều mà Huy Đức được dạy dỗ từ thuở thiếu thời:
“Nhưng hình ảnh Miền Nam đến với tôi trước cả khi tôi có
cơ hội rời làng quê nghèo đói của mình. Trên Quốc lộ 1, bắt đầu xuất hiện những
chiếc xe khách hiệu Phi Long thỉnh thoảng tấp lại bên những làng xóm xác xơ.
Một anh chàng tóc ngang vai, quần loe, nhảy xuống đỡ khách rồi rất nhanh đu ra
ngoài cánh cửa gần như trong một giây trước khi xe rú ga, vọt đi ngạo nghễ.
Hàng chục năm sau tôi vẫn nhớ hai chữ chạy suốt bay bướm, sặc sỡ sơn hai bên thành xe. Cho đến lúc ấy thứ
tiếng Việt khổ lớn mà chúng tôi nhìn thấy chỉ là những chữ in hoa cứng rắn viết
trên những băng khẩu hiệu kêu gọi xây dựng chủ nghĩa xã hội và đánh Mỹ. Những
gì được đưa ra từ những chiếc xe đò Phi Long thoạt đầu thật đơn giản: mấy chiếc
xe đạp bóng lộn xếp trên nóc xe, cặp nhẫn vàng chóe trên ngón tay một người
làng tập kết (ra Bắc) vừa về Nam thăm quê ra, con búp bê nhựa biết nhắm mắt khi
nằm ngửa và có thể khóc oe oe, buộc trên ba lô của một anh bộ đội phục viên may
mắn. Những cuốn sách của Mai Thảo, Duyên Anh… được những bộ đội giấu dưới đáy
ba lô đã giúp cho bọn trẻ chúng tôi biết một thế giới văn chương gần gũi hơn là
“Rừng thẳm tuyết dày”, “Thép đã tôi thế đấy”, những chiếc máy Akai, radio
cassettes được những người hàng xóm tập kết mang ra giúp chúng tôi nhận ra
người lính xa nhà, đêm tiền đồn còn nhớ mẹ nhớ em, chứ không chỉ là ‘Đêm Trường
Sơn nhớ Bác’. Có một miền Nam
không giống như Miền Nam
trong sách giáo khoa của chúng tôi.”
Qua đoạn văn này trong Lời Nói
Đầu, người ta thấy tác giả tự tay chém
vào thân người mình những vết thương sâu hoắm để tự cảm thấy một nỗi đau, nỗi
đau không thảng thốt, nhưng nó sẽ cắn xé, gậm nhấm từ từ một con người còn tỉnh
táo để nhận biết sự thật, để nhận biết là trong bao nhiêu lâu của tuổi
xuân mình chỉ được biết những gì không
phải sự thật. Theo tôi, nỗi đau của Huy Đức cũng như hàng triệu người có cùng
một cảm xúc như anh không khác gì nỗi đau đớn của hàng triệu người ở Miền Nam
Việt Nam đã để mất cái phần đất mà chỉ sau 30-4-1975 họ mới có thể hoàn toàn
thấu hiểu rằng so với Miền Bắc, nó thật là quí giá, đúng như lời cựu Tướng độc
nhãn của Do Thái Moshe Dayan đã nhận định khi ông đến Saigon để viết một phúc
trình cho tờ Israel Times rằng người Miền Nam Việt Nam phải biết thua Cộng sản
thì mới có thể chiến thắng được họ. Theo tôi nỗi đau ấy không thể được làm
thuyên giảm chỉ với những tập tài liệu “Hồ Sơ Mật Dinh Độc Lập” hoặc “Khi Đồng Minh Tháo Chạy” hay “Tâm Tư của Tổng
Thống Nguyễn Văn Thiệu”, hoặc những cuốn hồi ký trong đó có một số
tướng lãnh hay các sĩ quan cao cấp không ngại ngùng nói thẳng ra chuyện các ông
bỏ đơn vị, bỏ lính của mình như thế nào để thoát ra nước ngoài trong cơn lốc
nghiêng ngửa của Miền Nam. Những cuốn sách ấy không thể là những thắc mắc mà
cho tới bây giờ vẫn chưa có câu trả lời dứt khoát, đó là: “Một quân đội thiện chiến, quả cảm, chiến đấu
không mệt mỏi trong một cuộc chiến dài và đẫm máu như thế, tại sao họ vẫn thất
bại”?
Suy nghĩ của tôi cũng chỉ là cái
cớ để nói tới cái bối cảnh ra đời của “Bên Thắng Cuộc”. Sống trong lòng chế độ
ở Việt Nam mà đề cập tới những người thắng cuộc cũng đã là một điều khó khăn và
đe dọa cho Huy Đức rồi, nhưng đề cập tới những người thuộc bên thua cuộc lại
càng khó khăn, phức tạp và nhạy cảm hơn đối với một tác giả xuất thân từ phía
thắng cuộc. Tôi xin trích dẫn lời kết luận của một trong những phản ứng chỉ
trích của một cựu sĩ quan bên thua cuộc (VML) qua một e-mail được một bạn tù
forward cho tôi: “Tác
giả đã bỏ ba năm, ngồi đọc 126 quyển, rồi trích lấy 609 câu ghép lại thành từng
chương mục thêm vào mấy lời cám ơn, thế là xong một tác phẩm vĩ đại! Tóm lại
Bên Thắng Cuộc chỉ là một công trình đáng giá 3 xu hoàn thành từ một Cháu ngoan
của Bác”. Tôi không ngạc nhiên về những lời phán này bởi vì trong 20
năm sống ở Mỹ, thói quen của một số người thuộc phía thua trận là bác bỏ và phủ
nhận bất cứ một cuốn sách nào từ phía những người thắng trận, nhưng không may,
họ lại không thể trưng ra được một tác phẩm nào của họ để đối chiếu. Andrew
Wiest khi viết cuốn “Vietnam‘s Army Forgotten” đã có một thư mục sách ông tham
khảo dài, những cuộc phỏng vấn và mất cả 3 năm trời để tìm cách phỏng vấn người
anh hùng trong quân đội VNCH Trần Ngọc Huế và cả người mà ông cho rằng một nửa
giai đoạn chiến tranh là anh hùng nhưng cuối cuộc chiến trở thành người phản
bội, Phạm Văn Đính. Larry Berman cũng đã mất khoảng 10 năm trời, dùng số sách
tham khảo nhiều hơn Huy Đức và nhất là tìm cách phỏng vấn cho được tình báo
viên Phạm Xuân Ẩn trước khi ông ta qua đời để viết cuốn “Perfect Spy”. Cựu Bộ
Trưởng Quốc Phòng Mỹ khi viết cuốn “Argument Without End” cũng đã phải vùi đầu
vào một núi tài liệu trong văn khố quốc gia Mỹ, rồi phải vận động để được phép
thu thập cái kho tài liệu về chiến tranh Việt Nam của Hà Nội mà trước đó không
một tác giả Mỹ nào xâm nhập vào được, tổ chức các buổi hội thảo tốn kém để đối
thoại với các cựu tướng lãnh và giới chức quân sự chính trị cao cấp từng đối
đầu với Hoa Kỳ trong chiến tranh, gặp gỡ riêng tư những người cầm chịch trong
cuộc chiến Việt Nam cả về phía Mỹ, Việt Nam và VNCH. Ấy vậy mà trong buổi giới
thiệu sách ở New York,
tác giả vẫn còn xin lỗi vì những tham khảo chưa trọn vẹn. Có thể có nhiều người
không thích những tác phẩm trên của các tác giả Mỹ với nhiều lý do khác nhau,
nhưng bảo chúng là ba xu hay vô giá trị, tôi thấy chưa ai dám hạ bút như vậy.
Một phản ứng khác từ Tiến sĩ Vũ Thị Phương Anh viết trên Facebook, vốn là con
của một viên chức cao cấp của VNCH, về cuốn “Bên Thắng Cuộc”, xin trích:
“Không ai trong chúng tôi lại có thể ngờ có
ngày những ký ức và sự kiện lịch sử ấy lại được một người từ bên thắng cuộc
viết ra. Những dòng chữ trong cuốn sách của Huy Đức được tác giả viết bằng
giọng văn bình thản, khách quan chẳng thấm vào đâu so với những ký ức đầy cảm
xúc của chúng tôi, những người phải trải nghiệm thực sự những thí nghiệm của
chế độ mới với những người anh em thua cuộc của họ… Những thông tin trong cuốn
sách không làm tôi xúc động-vì chắc chắn những chi tiết mà tôi có thể kể ra từ
kinh nghiệm cá nhân còn lâm ly và kỳ bí hơn nhiều – mà chỉ làm cho tôi thắc mắc
không biết đến bao giờ người anh em thắng cuộc
mới thực sự hiểu đầy đủ những người thua cuộc và ý thức rõ những điều
phi nghĩa phi nhân mà họ đã làm đối với người anh em kém may mắn của họ”.
Tiến sĩ Phương Anh cũng nói
“chính quyền hiện nay không chân thành nhận lỗi thì sẽ không bao giờ có hòa
giải thực sự”. Một nhân vật lịch sử cổ đại là Vua Trần Nhân Tôn, một vị vua
nhân đức và một tấm lòng mở rộng như Phật sống, tha tội cho tất cả quan quân đã
từng cộng tác với giặc Phương Bắc với để hàn gắn, hòa giải dân Việt có phải
nhận lỗi với phe thua cuộc? Lịch sử cận đại của cuộc chiến tranh Nam-Bắc Mỹ,
Tổng Thống Abraham Lincoln khi chiến thắng Nam
quân sau trận Gettysburg đã ra lệnh cho tướng
Grant phải đứng ra để chào kính viên tướng Nam
quân lên ngựa sau khi họ đã ký vào văn bản đầu hàng của Nam quân. Nhưng để hàn gắn, Tổng
Thống Abraham Lincoln không phải ra lời xin lỗi Nam quân vì thực sự chiến thắng của
Bắc Quân không phải là lỗi của ông. Nhưng hành động cấm tất cả binh lính dưới
quyền Tổng Tư Lệnh Abraham Lincoln không được truy bức những cựu thù là một
cách hàn gắn rất thông minh và văn minh khi bên chiến thắng chìa bàn tay ra
trước. Và chung quanh các cộng đồng người Việt Nam ở Hoa Kỳ tổ chức rất long
trọng những ngày gọi là Quốc Hận, nhưng đã có ai trong số những người lãnh đạo
quân sự và chính trị còn sống ở đây dám đứng ra nhận lỗi với chính những người
thua cuộc và dân chúng còn ủng hộ bên thua cuộc dù đã để mất miền Nam Việt Nam
không, hay họ vẫn cứ vẫn dễ dãi đổ tất cả tội lỗi cho Mỹ và Dương Văn Minh?
Cho nên, sau 37 năm Hà Nội chưa
bị đe dọa bởi những chống đối trong nước hay tại hải ngoại thì mơ ước của Tiến
sĩ Phương Anh vẫn chỉ là một giấc mơ đẹp nhưng không bao giờ thành hiện thực.
Bởi một điều: Khó có thể đổ lỗi cho bên chiến thắng khi cuộc chiến đã bị quốc
tế hóa thành ý thức hệ của hai khối Cộng Sản và Tư Bản. Trong một trận banh,
bên nào lừa banh được thì bên đó dễ dàng xuyên thủng lưới đối phương. Bên thua
khó lòng viện dẫn lý do là bên kia quỷ quyệt, chơi xấu nên mới thắng. Có phải
do thế mà bên chiến thắng phải xin lỗi thì các khán giả ủng hộ hai bên trong
trận banh từng chia rẽ nay mới có thể bắt tay đi uống bia với nhau được? Làm gì
có chuyện đó, thưa Tiến sĩ Phương Anh? Tỷ số bàn thắng thua trong một trận đá
banh hay bóng rổ vẫn là những con số lạnh lẽo, nhưng đáng buồn là nó xác định
được thứ ưu thế cũng lạnh lẽo không kém của bên thắng trận. Làm sao có ai trả
lời được câu hỏi nếu như Miền Nam
là bên thắng cuộc thì liệu sự trả thù có diễn ra với bên thua cuộc là miền Bắc
hay không?
Nay có một người như tác giả “Bên
Thắng Cuộc” nói tới những xúc cảm của chính mình khi viết một tác phẩm về
thắng, thua trên bàn cờ chính trị và quân sự Việt Nam, tôi nghĩ đó là một điều
đáng quí. Văn phong bình thản và ôn tồn của một người viết xuất thân từ xã hội
Cộng sản cho thấy đây là một yếu tố rất quan trọng của một tác giả còn dính líu
nhiều đến quá khứ của các phe lâm chiến trong một cuộc chiến không vinh hạnh gì
cho đất nước Việt Nam.
Càng bình thản và ôn tồn sự trình bày của mình càng thuyết phục. Càng gồng
mình, càng dao to búa lớn, càng biểu lộ cảm tính đối với những vấn đề nay đã
trở thành lịch sử thì càng thiếu thuyết phục và trong nhiều trường hợp lộ cho
người khác thấy cái non nớt ấu trĩ của mình.
Khi viết về bên thua cuộc, Huy
Đức còn nhiều thiếu sót nhất là những chương nói về tù cải tạo và cuộc vượt
biển của hàng triệu người Việt Nam
(cho tới nay không có con số ước lượng gần sự thật). Nhưng tôi vẫn nghĩ ở thế
hệ của Huy Đức (thế hệ 1.5), anh không thể hiểu hết những gì diễn ra trong hai
tấn bi kịch đầy thương tổn trong lịch sử cận đại hậu chiến tranh Việt Nam.
Hơn nữa, nội dung cuốn sách chỉ mô tả lại hình ảnh về những sai lầm của bên
thắng cuộc, kể cả sai lầm đối với bên thua cuộc. Ngay cả người Việt Nam thuộc
thế hệ 1.0, 1.5 và 2.0 hiện nay ở Mỹ có người còn không hiểu hết những gì cha
anh họ từng phải trải qua trong các trại cải tạo hay trên đường vượt biển,
huống chi một nhà báo trẻ như Huy Đức sinh ra và lớn lên trong môi trường xã
hội chủ nghĩa và chỉ khi vào Nam mới biết rằng có một Miền Nam không giống như
sách giáo khoa miền Bắc đã dạy anh. Cho nên chỉ cần Huy Đức viết về những bi
kịch nói trên của bên thua cuộc không giống như lời lẽ của Phan Xuân Huy, một
cựu dân biểu dưới chế độ VNCH mà anh trích dẫn trong sách là tôi đã có thể gọi
anh là một nhà báo còn giữ được nhân cách và còn tỉnh táo trong suy nghĩ giữa
một xã hội mà lòng người ngày càng tao loạn, và những người quản trị đất nước
ngày càng khắt khe đối với những ý tưởng độc lập.
Cái oái oăm của lịch sử cũng vẫn
theo đuổi những người Việt Nam
đã bỏ nước ra đi và nhận nơi này làm quê hương thứ hai của họ. Người Việt Nam ở quận Cam
hình thành một cộng đồng từ ngày những bước chân còn bàng hoàng của họ từ các
trại tị nạn đặt xuống đây. Cộng đồng này sống giữa một đất nước nơi mà quyền tự
do ngôn luận được thiết đã từ lâu và rộng thênh thang. Ấy vậy mà từ 37 năm qua,
người dân ở đây cho biết chưa bao giờ họ được nhìn thấy hay được nghe những lời
lẽ ôn tồn, lịch sự trong các cuộc thảo luận những vấn đề nhậy cảm. Người ta chỉ
thấy diễn ra những lời cuồng nộ và nhục mạ những người có những suy nghĩ khác
suy nghĩ của vài cá nhân hay phe nhóm ở đây. Người Mỹ gốc Việt ở quận Cam nói
riêng ngày nay thấy một số cá nhân hoạt động chính trị trong cộng đồng bỗng trở
thành những “ông biện lý” hay “quan tòa” chỉ biết “phán” mà không hề biết lắng
nghe. Họ động dao, động thớt bằng những lời lăng mạ trước, dọa biểu tình sau và
cuối cùng bơi móc đời tư của “đối thủ” trên một vài cơ quan truyền thông Việt
ngữ. Trong bối cảnh này còn diễn ra một số những hành động ngược ngạo khác: có
một vài tờ báo hay cơ quan truyền thông có những bài viết bị kết án là thân
Cộng thì chẳng ai làm gì họ được, nhưng ngược lại có những cơ quan truyền thông
hay báo chí khác cũng bị cáo buộc tương tự thì bị làm tình làm tội. Chính nghĩa
nào cho những người cứ mở miệng ra là nói mình phục vụ cộng đồng hay chống Cộng
trong khi chỉ đi làm chuyện tào lao này vậy? Chưa hết, còn một vài nghịch lý
nữa: trong một vài buổi ra mắt sách ở đây, có những nhà “phê bình” lên diễn đàn
thú nhận chưa đọc tác phẩm của người ta mà vẫn tiếp tục khen lấy khen để chỉ vì
tác giả thuộc “phe ta”. Ngược ngạo này sinh ra ngược ngạo khác. Có một thời kỳ,
nhiều nhà hoạt động ở Little Saigon này coi Hoàng Minh Chính, Nguyễn Thanh
Giang, Tiêu Dao Bảo Cự, Hà Sĩ Phu là
khuôn vàng thước ngọc cho công cuộc chống Cộng nhưng cũng lại chính những người
đó nay buông ra những lời lẽ thiếu lịch sự với Bùi Tín, Nguyễn Minh Cần và thậm
chí cả Vũ Thư Hiên.
Vì thế, tác phẩm của Huy Đức,
ngoài những lời phê bình nghiêm túc, đứng đắn cũng đã nhận được một số phản ứng
đại loại như “Việt
cộng con”, “răng hô”, “cháu ngoan của Bác”, “ve vãn người quốc gia”, “lộng giả
thành chân”, “Bên Thắng Cuộc chỉ đáng gia ba xu” cũng là chuyện
thường tình. Trong cơn cuồng nộ của một nhóm người, những cảm tính này rất dễ
diễn tả, rất dễ buột ra khỏi cửa miệng, nhưng để có những bằng chứng đi kèm cho
thuyết phục thì thật là khó khăn vô cùng vì nó cũng buộc những người phản bác
cũng phải dùng một thời gian nghiên cứu lâu ít nhất cũng lâu bằng thời gian tác
giả Huy Đức thai nghén “Bên Thắng Cuộc”.
Cho nên, theo tôi, khen, chê, phủ
nhận, bác bỏ là quyền đánh giá của người đọc trên một đất nước tự do. Không ai
có quyền ngồi lên trên sự tự do đó được. Như thế rõ ràng, người đọc có quyền
rộng rãi để lựa chọn một thái độ thì không lý do gì một người nào đó lại cần
phải dùng những lời lẽ thô bạo để phê phán một tác phẩm được viết ra bằng một
văn phong thầm lặng như trong “Bên Thắng Cuộc”. Trong tinh thần suy nghĩ của
một người tự do, tôi đọc “Bên Thắng Cuộc” gần một tháng mới xong và giữ một
nhận định riêng cho mình đối với toàn bộ tác phẩm. Bài viết này được viết để
chia sẻ với bạn đọc vào ngày cuối cùng của năm 2012 mới chỉ đề cập tới phần bên
thua cuộc trong tác phẩm “Bên Thắng Cuộc”. Những phần khác, tôi sẽ đưa ra vào
những số báo của năm 2013. (V.A)
Nguồn: Sống Magazine
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét