17 thg 10, 2013

Trần Kiếm Qua: Hoàng Hà nhớ Hồng Hà thương

Tác giả: Trần Kiếm Qua
Người dịch: Nguyễn Đồng Thoại
Nhà xuất bản: Văn học
Năm xuất bản: 2004

GIỚI THIỆU TÓM TẮT VỀ TÁC GIẢ

Trần Kiếm Qua, tên gốc là Trần Ngọc Anh, người huyện Ngũ Đài, tỉnh Sơn Tây, Trung Quốc, tốt nghiệp Trường Nữ học sư phạm của tỉnh Sơn Tây. Năm 1933 tham gia cách mạng. Tháng 10 năm 1937 được kết nạp vào Đảng Cộng sản Trung Quốc. Tháng 1 năm 1938, tại căn cứ kháng Nhật Tấn-SáT-Ký, bà kết hôn với Hồng Thủy - tức tướng quân Nguyễn Sơn, vị tướng tài ba của cả Trung Quốc và Việt Nam.

Trong thời kỳ chiến tranh cách mạng, bà từng làm Chủ nhiệm Hội Phụ nữ cứu quốc huyện Ngũ Đài, giáo viên văn hóa ở Phân hiệu 2 Trường Đại học Kháng Nhật, Trưởng khoa Khoa Giáo dục và nuôi dưỡng của Trường Mầm non số hai Diên An.

Sau khi Trung Quốc được giải phóng bà làm Viện trưởng Viện Giáo dục mầm non "1/6" Bắc Kinh, rồi làm Phó Giám đốc Sở Giáo dục Bắc Kinh. Năm 1983, bà nghỉ hưu.



THƯ GỬI NHÀ XUẤT BẢN VĂN HỌC VÀ BẠN ĐỌC VIỆT NAM

Nhà xuất bản Văn học Việt Nam và bạn đọc Việt Nam thân mến!

Cuốn Hoàng Hà nhớ, Hồng Hà thương này do Nhà xuất bản Thế giới đương đại Trung Quốc xuất bản vào tháng 4 năm 2000, đến nay đã được hơn một năm: Hoàng Hà là dòng sông mẹ của Trung Quốc. Hồng Hà là dòng sông mẹ của Việt Nam. Cuốn sách nói về một câu chuyện có thực, ghi lại những thực tế về cuộc chiến đấu kề vai sát cánh giữa hai Quân đội, hai Đảng, hai nước Trung Quốc và Việt Nam, phản ánh thực tế nhất về tình hữu nghị truyền thống của nhân dân hai nước Trung-Việt. Gia đình của chúng tôi chính là tượng trưng của tình hữu nghị đó. Hoàng Hà và Hồng Hà sẽ mãi mãi chảy xuôi tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước Trung-Việt cũng sẽ mãi bền vững với thời gian. Cuốn Hoàng Hà nhớ, Hồng Hà thương sau khi được đồng chí Nguyễn Đồng Thoại dịch ra tiếng Việt một cách tinh tế và chuẩn xác cùng với sự giúp đỡ nhiệt tình của Nhà xuất bản Văn học Việt Nam, cuối cùng đã ra mắt bạn đọc, cho phép tôi gửi lời chúc mừng đền các bạn. Chúc nhân dân hai nước Trung-Việt cùng nhau tiến bước, phát triển mạnh mẽ trong hình thế mới của công cuộc cải cách, đổi mới và trong sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa vĩ đại.

Xin gửi tới các bạn lời chào trân trọng nhất!

Kính thư!
Phu nhân tướng Nguyễn Sơn
TRẦN KIẾM QUA
Bắc Kinh, ngày 22 tháng 9 năm 2001


LỜI TỰA
của Đại tướng Võ Nguyên Giáp

(Nguyên bản tiếng Việt)

Tôi rất vui mừng được chị Trần Kiếm Qua, vợ anh Nguyễn Sơn nhờ viết lời tựa cho cuốn sách "Hoàng Hà nhớ, Hồng Hà thương”. Ghi chép lại những hồi ức của chị, nó bất giác gợi cho tôi nhớ lại những ngày tháng sống và chiến đấu cùng anh Nguyễn Sơn.

Anh Nguyễn Sơn từ nhỏ đã tham gia phong trào thanh niên và được vinh hạnh học tập tại trường quân sự nổi tiếng của Trung Quốc - Trường Quân sự Hoàng Phố. Khi anh Nguyễn Sơn về nước, thì quân Pháp bắt đầu cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, nước ta cũng bước vào thời kỳ kháng chiến lâu dài. Trong cuộc họp của thường vụ, Bác Hồ, anh Trường Chinh và tôi yêu cầu anh Nguyễn Sơn vào miền Nam, nơi chiến sự ác liệt. Khi tôi đảm nhiệm chức vụ Chủ tịch ủy ban Quân sự toàn quốc (sau này đổi tên thành ủy ban Kháng chiến toàn quốc), anh Nguyễn Sơn được cử làm Chủ tịch ủy ban Kháng chiến miền Nam Việt Nam. Đây là một chức vụ cực kỳ quan trọng, thể hiện lòng tin của Đảng và Chính phủ đối với anh.

Anh Nguyễn Sơn là một chiến sĩ cách mạng ưu tú của Đảng, là một tướng lĩnh có công với quân đội ta. Đặc biệt anh đã từng tham gia cuộc chiến tranh cách mạng lâu dài ở Trung Quốc, là vị tướng nước ngoài duy nhất của Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc, cho nên khi các đồng chí láng giềng nhắc tới anh đều với một tình cảm tôn trọng và sâu nặng. Năm 1993, sang thăm Trung Quốc, được gặp vợ và các con anh Sơn, tôi rất vui và yên lòng khi thấy họ có một tinh thần lạc quan. Những đứa con bên đó cũng giống như những đứa con đang sống trong gia đình bên này, đều đã thực hiện được những điều mà thế hệ cha anh mong đợi, cần cù phấn đấu học tập và công tác.

Do vậy, có thể nói tướng Nguyễn Sơn là một tấm gương sáng, là một chiến sĩ chủ nghĩa quốc tếcủa Cách mạng Việt Nam và Cách mạng Trung Quốc.

Tướng Nguyễn Sơn là một chiến sĩ Cộng sản kiên định, là một người có khí phách và cũng là một vị tướng tài ba. Tài ba của anh Sơn không chỉ ở lĩnh vực quân sự, mà còn trong các lĩnh vực chính trị, tuyên truyền, văn nghệ. Nguyễn Sơn còn có một phong cách riêng, vô cùng độc đáo Ví dụ, khi làm chủ hôn đã yêu cầu cô dâu, chú rể làm thơ ngay tại hôn lễ, điều này chỉ có anh Nguyễn Sơn mới làm được.

Cho dù ở Trường Lục quân Quảng Ngãi, hay ở Trường Quân chính Quân khu 4, anh Sơn luôn rất coi trọng đào tạo cán bộ. Trong phong trào luyện binh, anh đã rất thành công và đưa ra một hình thức huấn luyện được áp dụng trong toàn quân và nhân dân: "Đại Hội Tập".

Anh tôn trọng bạn bè và mọi người, coi trọng bồi dưỡng đội ngủ xung quanh.

Có thể nói, trong giai đoạn Cách mạng Tháng Tám vừa mới thành công, Cách mạng Trung Quốc còn chưa giành được thắng lợi, Đảng và nhân dân ta đã phát huy tinh thần tự lực cánh sinh, độc lập tự chủ, kiên quyết đấu tranh bảo vệ chính quyền non trẻ trong điều kiện bị bao vây và cực kỳ khó khăn phức tạp. Dưới sự lãnh đạo của Bác Hồ và Đảng, toàn dân đoàn kết, xây dựng lực lượng chính trị, vũ trang, từ xây dựng dân quân đến xây dựng sư chủ lực đầu tiên. Chúng ta đã nêu cao tinh thần tự lực tự cường, đã đứng vững và lớn mạnh, đặt nền móng vững chắc cho việc tiếp thu và sử dụng có hiệu quả sự viện trợ hết lòng của các nước anh em, đặc biệt là Trung Quốc sau này. Tôi phải nhắc đến một tài liệu năm 1949 do Pháp công bố, trong tài liệu đó, Pháp đã buộc phải thừa nhận "dùng lực lượng quân sự không thể thắng nổi Việt Minh".

Anh Sơn đã về nước chính vào những ngày khó khăn đó Anh đã tích cực tham gia các cuộc thảo luận về quân sự chiến tranh, đã đưa ra nhiều ý kiến sâu sắc về vấn đề bồi dưỡng cán bộ, tác chiến, xây dựng bộ đội chủ lực, xây dựng lực lượng dân quân v.v... đặc biệt anh rất coi trọng vấn đề xây dựng dân quân. Trong các cuộc hội nghị, anh phát biểu rất sôi nổi và thu hút được sự chú ý của mọi người. Trong quan hệ với bạn bè, anh tôn trọng đồng chí, bạn chiến đấu, thường tâm sự với mọi người thâu đêm suốt sáng, làm mọi người có cảm giác thoải mái và quyến rũ.

Thời gian về nước của anh không dài, nhưng anh đã có những đóng góp hết mình. Mùa hè năm 1950, do phân công công tác, anh đã đến Bắc Kinh. Mặc dù xa quê hương đã lâu, bôn ba hoạt động cho cách mạng ở bên ngoài, nhưng không có giờ phút nào anh không nhớ tới Tổ quốc mình. Khi bệnh tình nguy kịch, mặc dù đã được bạn bè hết lòng cứu chữa, thậm chí gửi sổ y bạ đi hội chẩn ở Liên Xô, nhưng anh không thể qua nổi. Theo nguyện vọng của anh, Đảng đã đón anh về nước. Anh đã từ trần trong niềm thương tiếc vô hạn của người thân, bạn bè chiến hữu trên mảnh đất quê hương.

Mặc dù mất sớm, nhưng anh đã để lại hình ảnh của một người Cộng sản suốt đời cúc cung tận tụy cho sự nghiệp cách mạng nước ta và đất nước anh em hữu nghị, hình ảnh một đồng chí, một người bạn chiến đấu thân thiết và hết sức chân thành. Anh mãi mãi được ghi nhớ trong trang lịch sử cách mạng Việt Nam và khắc sâu trong trái tim mỗi chúng ta.

Hà Nội, ngày 22-12-1999
Đại tướng VÕ NGUYÊN GIÁP

honngv trích: 

Hồng Thủy mới ba mươi chín tuổi đã được Quân đội nhân dân Việt Nam phong quân hàm thiếu tướng. Chủ tịch Hồ Chỉ Minh tặng ông một bài thơ mười hai chữ. Nhân dân Việt Nam gọi người anh hùng huyền thoại là "Vị tướng nhân dân”.

Mùa thu năm 1947, quân Pháp đã chiếm lĩnh các thành thị lớn và vừa, các đường giao thông huyết mạch Việt Nam, hình thành thế bao vây căn cứ địa Việt Bắc. Ngày 7 tháng Mười năm đó, chúng mở cuộc tấn công thu đông 1947, chia ba cánh quân tiến đánh vào căn cứ Việt Bắc, ý đồ tiêu diệt quân chủ lực, đập tan cơ quan lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Quân đội nhân dân Việt Nam đã dùng chiến thuật nhử địch vào sâu, chia cắt để bao vây tiêu diệt, chuẩn bị sẵn mồ chôn chúng, kiên quyết đánh trả quân xâm lược, tiêu diệt sáu nghìn tên, giành thắng lợi trong chiến dịch Thu Đông 1947 ở Việt Bắc.

Chiến khu Bốn do Hồng Thủy chỉ huy đã phối hợp tác chiến chặt chẽ với Việt Bắc góp phần đánh bại kế hoạch muốn đánh nhanh, thắng nhanh của địch.

Để làm tăng thêm uy thế cho quốc gia và quân đội, tháng 1 năm 1948, Hồ Chủ tịch ban bố sắc lệnh phong quân hàm cho một số đồng chí lãnh đạo quân đội.

Được phong Đại tướng có đồng chí Võ Nguyên Giáp.
Được phong Trung tướng có đồng chí Nguyễn Bình.
Được phong Thiếu tướng gồm có đồng chí Nguyễn Sơn, và tám đồng chí nữa.

Hồng Thủy vừa qua ngày sinh thứ ba mươi chín, đang là Tư lệnh kiêm Chính ủy Chiến khu Bốn, đang phải kiên trì kháng chiến trong hậu phương địch. ông có một số ý khác trong việc phong quân hàm lần này, mong đem quân hàm thiếu tướng chuyển phong cho đồng chí khác nhưng vì ở xa trong địch hậu, không thể trực tiếp nói với Hồ Chủ tịch lúc đó đang ở căn cứ địa Việt Bắc. Vì thế, ông hến gửi một bức "công văn hỏa tốc" lên Hồ Chủ tịch.

Khi Hồ Chủ tịch nhận được "công văn hỏa tốc" do nhân viên bảo mật đưa tới là lúc Người đang tiếp ông Hoàng Đạo Thúy, người lãnh đạo Trường Thiếu sinh quân, trong một cánh rừng già. Sau khi nhìn qua "công văn hỏa tốc", Người mỉm cười, gật gật đầu:
"Tôi biết rồi".

Sau đó một lúc, Người bảo nhân viên văn thư đưa cho Người một cây bút và một tấm danh thiếp. Suy nghĩ một lúc, Người dùng chữ Hán, viết một bài thơ mười hai chữ để tặng:

Thiếp thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi tướng Nguyễn Sơn năm 1948

Tặng Sơn đệ
Đảm dục đại
Tấm dục tế
Trí dục viên
Hành dục phương
HỒ CHÍ MINH

Tạm dịch:

Tặng chú Sơn
Dũng cảm phải lớn
Tấm lòng phải tế nhị
Suy nghĩ phải trọn vẹn
Hành động phải chín chắn
HỒ CHÍ MINH

Người lệnh cho nhân viên công tác lập tức gửi vào Chiến khu Bốn trao cho Hồng Thủy.

Ít ngày sau, Hồng Thủy đọc tấm danh thiếp do giao thông viên mang tới, hiểu Hồ Chí Minh đã trích dẫn bài thơ thời Đường, Tùy của một nhà y học trứ danh Trung Quốc, Khổng Tư Mạc, gửi tặng bạn ông Lưu Chiếu Lâm, nguyên văn là:

Đảm dục đại nhi tâm dục tiểu
Trí dục viên nhi hành dục phương
Niêm niệm hữu như lâm đế nhật
Tâm tâm thường tụ quá kiều thời.

Hồ Chí Minh bỏ hai câu sau lấy hai câu đầu cắt thành bốn câu, lại đem ý "tâm dục tiểu” đổi thành "tâm dục tế”, ý nói rằng: Hồng Thủy "đảm đại, tâm tể" (gan dạ, tấm lòng tốt), khi suy nghĩ vấn đề nên chu đáo, trọn vẹn, hành động phải nhìn toàn đại cục. Đó là lời giảng giải cực kỳ sâu xa, lại cũng rất hy vọng ở Hồng Thủy có thể phát huy cao độ tinh thần theo hướng đó; vừa là biểu dương, vừa là dặn dò.

Hồng Thủy đương nhiên hiểu rất rõ dụng ý của Hồ Chủ tịch, lập tức cảm thấy tinh thần thoải mái, sẵn sàng tiếp nhận sự xếp đặt của Hồ Chủ tịch và Trung ương Đảng, tích cực bàn với đại biểu Trung ương là Bộ trưởng Phạm Ngọc Thạch tổ chức lễ tiếp nhận quân hàm với nghi thức long trọng tại nơi Khu bộ Khu Bốn đóng quân và làm tại sân vận động huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa.

Trong buổi lễ trang nghiêm tất cả mọi người ngước nhìn lên cờ đỏ sao vàng hát vang lời bài quốc ca hùng tráng:

Đoàn quân Việt Nam đi, chung lòng cứu quốc...

Nhân dân quanh vùng hàng chục cây số chen vai sát cánh về để dự buổi lễ long trọng này, nó không những đã đề cao được uy thế của Quân đội nhân dân Việt Nam mà còn cổ vũ cho sĩ khí chiến đấu của quân dân Khu Bốn.

Uy tín của Hồng Thủy trong cán bộ và nhân dân Việt Nam rất cao. Nhân dân Việt Nam gọi ông là "Vị tướng nhân dân”. 

Nguồn tại đây >>

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét