HNV: 40 năm sau cuộc chiến: Nỗi ám ảnh từ một bài thơ !
Nhân dịp này xin thắp nến TÂM HƯƠNG tưởng nhớ đến các bạn K14vt đã nửa chừng xếp tạm bút nghiên, ra đi vĩnh viễn giữa tuổi "chưa 1 lần yêu" !
Nhân dịp này xin thắp nến TÂM HƯƠNG tưởng nhớ đến các bạn K14vt đã nửa chừng xếp tạm bút nghiên, ra đi vĩnh viễn giữa tuổi "chưa 1 lần yêu" !
Phan Bá Ất
Với gần 200 bài thơ của 150 nhà thơ có mặt trong tập "Thơ hay Việt Nam thế kỷ XX" Nhà thơ Nguyễn Bùi Vợi và nhà thơ Quang Huy tuyển chọn (Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin liên kết với công ty Văn hóa trí tuệ Việt ấn hành năm 2006); ta gặp rất nhiều bài thơ hay và những tác giả nổi tiếng. Tôi dừng lại ở bài "Thương nhớ" của Nguyễn Hồng Hà.

Thương nhớ
Nguyễn Hồng Hà
Thế là tao đợi chết già
Thế là tao đợi chết già
Chứ không chết trẻ
như là tụi bay
Tụi bay đi…thật tiếc
thay
Những thằng lính trận
hây hây má hồng.
Tụi bay chưa biết phải lòng
Cuộc đời trai, những chấm hồng trong tranh
Nhoàng một cái! Thế là "xanh"
Chiến trường còn lại
những anh lính già
Lính già thắng trận
về nhà
Bao nhiêu tội vạ tà
tà chia nhau
Thằng còn mảnh đạn
trong đầu
Bỗng dưng quẳng áo đi
đâu khỏi làng.
Có thằng nhiễm chất
da cam
Đẻ con dị tật lại
càng xót xa
Thoáng tân hôn vợ đã
già
Có chồng thêm khổ, chẳng
thà nằm không.
Đi đêm đâu lạc đường
rừng
Giữa đường cái rộng
vấp sưng mặt mày
Ngủ trong hầm hố thì
say
Chiến tranh vật vã ở
ngay trên giường.
Bây giờ cách trở âm dương
Bây giờ cách trở âm dương
Bao giờ mới vợi nhớ
thương tụi mày.
1997
1997
Đọc "Thương nhớ", tôi muốn khóc, tâm hồn trĩu nặng một ám ảnh khôn nguôi. Có lẽ cũng không cần phải giải thích và bình luận nhiều bởi bài thơ rất dễ hiểu và viết về một đề tài, rất quen thuộc, rất thật, viết thơ như nói chuyện đời thường. Vậy nhưng, đó lại là đề tài rất nhậy cảm, dễ gây xúc động. Một khi đề cập đến nó thì ai cũng muốn bàn, muốn nói ít nhiều- Đề tài về chiến tranh! về số phận con người!
Bài thơ viết về người chiến binh thời hậu chiến nhớ thương những đồng đội đã từng chia lửa, sống chết có nhau nơi chiến trường lửa đạn. Đó là lời nói chuyện của một người đang sống với những linh hồn của đồng đội đã chết bởi cuộc chiến ác liệt đã sớm cướp đi cuộc sống của họ. Nói và kể với người đã chết như nói và kể với người đang sống trước mặt. Kể và nói với bạn vừa thân mật, an ủi, vừa như có cả đùa cợt, khôi hài, chua chát, lạnh lùng trước những thực tế tàn nhẫn mà chính họ và đồng đội phải chịu đựng.
Hai khổ thơ đầu, ngôi thứ nhất "Tao" nói với ngôi thứ hai "Tụi bay" về chính "tụi bay", những người đã chết! Những đồng đội thân yêu của "Tao" đã bị chiến trận cướp đi giữa tuổi thanh xuân
"Thế là tao đợi chết già
chứ không chết trẻ như là tụi bay"
Cái chết đối với "Tao" (có thể là tác giả) quan niệm như một sự bình thường, kẻ trước người sau :"Thế là tao đợi chết già" chẳng hiểu đây là sự may mắn hay sự bất hạnh, tiếc nuối không được chết trẻ. Từ"Thế là" như sự an bài, còn từ"Đợi" như một sự mong ngóng. Thật là nghịch lý, xót xa. Vậy mà sự chết vẫn là một mất mát không mong muốn?
"Tụi bay đi… thật tiếc thay
Những thằng lính trẻ hây hây má hồng"
Quỹ sống của những người lính trẻ chết trận chẳng được là bao. Những chàng trai vừa lớn lên, dào dạt sức sống, đẹp đẽ thần tiên "Hây hây má hồng", đầy trong sáng, triển vọng và tương lai rực rỡ, đẹp như "những chấm hồng trong tranh". Những chàng trai chưa hề biết yêu, được yêu "Chưa biết phải lòng" nói theo cách nói cổ xưa, dân dã. Những chàng trai trẻ trung, mới lớn, sớm phải rời xa quê hương, gia đình, bố mẹ và những người thân; rời xa đồng ruộng, nhà máy, mái trường, lên đường ra tuyến lửa. "Thật tiếc thay" Phút chốc họ đã hy sinh trong lửa đạn
"Nhoàng một cái! thế là "xanh"
Chiến trường còn lại những anh lính già"
Tuổi trẻ hăng hái và dũng cảm. Họ dễ lập chiến công đấy! và cũng dễ hy sinh đấy. Một thời "dân lính" thường có câu "Chết xanh cỏ, sống đỏ ngực" như một sự xác định rất rõ ràng trước khi ra trận! và như một quy luật, cái mất đi và cái còn lại. Nghịch lý "lá xanh rụng xuống, lá vàng trên cây" ở trường hợp này là một lẽ đương nhiên xa xót.
Nói với người thân, bạn bè đồng đội đã chết, thuộc về cõi tâm linh, mà không cần cầu kỳ, khách sáo, trang trọng. Ở đây, ta thấy ngôn ngữ thân mật, bỗ bã, đầy chất trẻ trung, khôi hài pha sự riễu cợt chua chát, một thứ ngôn ngữ có cả chất "bụi", rất "quậy", rất "Lính". Các đại từ "Tao", "Tụi bay", "Thằng", những động từ, danh từ chỉ vận tốc thời gian, chỉ cái chết "Nhoàng một cái thế là xanh ", "Tụi bay đi…thật tiếc thay", đó là ngôn ngữ mà thường nhật sống bên nhau họ vẫn quen dùng.
Ba khổ sau, "Tao" (tác giả) nói với bạn bè "Tụi bay" đã mất, về những "thằng" "lính già" còn sống.
Lính già thắng trận về nhà
Bao nhiêu tội vạ tà tà chia nhau
Đó là những kẻ "Chiến thắng". Khi nói "Tà tà" "chia nhau; khiến ta quen gặp, quen nghe, tưởng như phải hiểu là hãy từ từ , đừng vội vã, ai cũng có phần. Đó hẳn phải là phúc phần, lộc phần vậy. Thế nhưng ở đây lại là họ chia nhau gánh vác tội vạ và bất hạnh, những di chứng, hậu quả của chiến tranh khốc liệt, tàn nhẫn! Không cười sao được? không khóc sao được khi "Tà tà " "chia nhau" như thế? xót xa thay! Ta hãy xem họ được chia và được hưởng những phần nào?
Thằng còn mảnh đạn trong đầu
Bỗng dưng quẳng áo đi đâu khỏi làng
Chỉ hai câu, đã nói rõ cả nhân quả. Vậy mà "Bỗng dưng", sao lại "Bỗng dưng"? Phải! Anh ta đang sống bình thường, anh ta bỗng điên, anh ta tâm thần, anh ta không còn là anh ta, anh ta không biết anh ta là ai? Sống mà không tỉnh, sống mà điên loạn. sống mà chẳng là người!
Và đây:
Có thằng nhiễm chất da cam
Đẻ con dị tật lại càng xót xa
Thoáng tân hôn vợ đã già
Có chồng thêm khổ, chẳng thà nằm không
Nhân và quả rõ ràng, không cần bình luận, giải thích, tự nó đã nói tất cả, một cách tường minh. Di hại của cuộc chiến đã để lại cho không chỉ một, hai thế hệ, con người bị thay đổi cả gien di truyền, có thể vô sinh hoặc cho ra đời những sinh linh tật nguyền, quái dị! Thực tế chúng ta đã chứng kiến không ít những mảnh đời, những số phận như thế mà những người lính hậu chiến phải gánh chịu, những người thân, những người ruột thịt của họ phải gánh chịu. Không hiểu hai câu cuối của khổ thơ là lời than vãn, sự gào thét của những người lính không thể làm chồng, làm bố, hay của những người phụ nữ không được làm vợ, làm mẹ, hoặc làm vợ mà không được làm vợ, không được làm mẹ? Than ôi! Một trong những Thiên chức và hạnh phúc của người phụ nữ là được làm vợ và làm mẹ. Bao nhiêu phụ nữ thời chiến đằng đẵng chờ đợi để thực hiện được hạnh phúc đó. Còn gì đau khổ hơn cảnh ngộ làm họ phải thốt lên"Có chồng thêm khổ chẳng thà nằm không".
Những người lính đã từng trải qua biết bao những thử thách cam go, gian khổ. Họ đã từng vượt qua bao rừng sâu, đèo cao, vực thẳm, bao nhiêu sông suối thác ghềnh. Họ đã từng xông pha trận mạc, anh dũng, kiên cường trước mưa bom, bão đạn. Họ đã đứng vững và chiến thắng. Vẫn những con người đó, thời hậu chiến, họ lại gặp những thử thách làm người, thử thách nhân cách, thử thách lòng dũng cảm chịu đựng những bất hạnh ngang trái khó lòng vượt qua. Chẳng những họ phải chịu đựng những bất hạnh của cuộc đời riêng tư, di hại chiến tranh mà họ còn phải chứng kiến và chịu đựng những thử thách, vấp váp nhiều bình diện của cuộc đời vốn có nhiều nghịch lý, bất công!
Đi đêm đâu lạc đường rừng
giữa đường cái rộng vấp xưng mặt mày
Ngủ trong hầm hố thì say
Chiến tranh vật vã ở ngay trên giường
Lại gặp hai câu thơ một, tương phản nhau. Cùng một sự việc, câu trên diễn ra trong chiến tranh, câu dưới diễn ra trong hòa bình.
Trong chiến tranh, dù đi trong rừng âm u, gai góc, giữa đêm tối, khó xác định đường lối, phương hướng chăng nữa, người chiến sỹ không bao giờ bị lạc. Ta hiểu cả nghĩa đen và nghĩa bóng của câu thơ. Đường hướng địa lý và đường hướng cuộc đời!
Vậy mà trong hòa bình, hậu chiến, dù đi trên đường rộng thênh thang, giữa ban ngày, người chiến binh một thời ngang dọc và đầy bản lĩnh đó, vấp ngã! tất nhiên ta cũng hiểu cả nghĩa đen và nghĩa bóng của sự vấp ngã này. Vấp ngã đường đi do tật nguyền chân, mắt? vấp ngã đường đời bởi nghịch cảnh éo le?
Trong chiến tranh, giữa bom đạn đe dọa sự sống, người chiến sĩ vẫn vô tư ngủ ngon lành trong hầm hố, dẫu ở đó chưa có gì đảm bảo chắc chắn cho sự sống. Hình như lúc đó chỉ có bom đạn là thử thách duy nhất người lính, dẫu khốc liệt nhưng không làm họ bất an một khi họ đã xác định sống chết là sự thường tình của người lính trận.
Trong thời bình, được nằm trên giường chiếu êm rộng, trong không gian yên tĩnh, trong tình cảm của gia đình, quê hương thân yêu thì họ lại phải "Vật vã", đau đớn, quằn quại, khốc liệt, bất an hơn rất nhiều lần những thử thách đạn lửa chiến trường. Làm sao có được những giấc ngủ ngon như ở hầm hố ngày xưa? Ta liên tưởng đến sự hành hạ của những cơn bệnh hiểm nghèo, cơn đau dữ dội bởi những tật nguyền, những thương tích mà người chiến sỹ phải đương đầu trên giường bệnh. Ta liên tưởng tới những nỗi đau thể xác và tinh thần của người chiến sĩ, kể cả những bất lực, mâu thuẫn và hậu quả đáng buồn trong chuyện gối chăn: "Chiến tranh vật vã ở ngay trên giường". Ta hiểu đây lại là trận chiến hơn cả những trận chiến họ đã từng gặp lúc chiến tranh. Đây là chiến tranh hơn cả chiến tranh! khó lòng chiến tháng.
Chúng ta dễ gặp những bài thơ lục bát, thể thơ như quốc thi của dân tộc ,đầy chất trữ tình, thơ mộng, hình ảnh đẹp, câu thơ nhuần nhụy, âm vận, nhạc điệu gợi cảm
"Thương nhớ" được viết dưới thể thơ lục bát quen thuộc, nhưng không thuộc loại bài thơ như vậy. Tuy nó không lộng lẫy văn chương, hình ảnh, từ ngữ, triết lý không cầu kỳ, cao xa, không có những yếu tố như nhiều bài lục bát hay gặp, nhưng ai đọc nó mà không rơi nước mắt. Bài thơ viết như nói, "ráo hoảnh" nhưng tràn ngập nỗi đau và tình "Thương nhớ" đồng đội, những số phận, kiếp người. Chẳng thấy triết lý truy tìm nguyên nhân cái chết hoặc những bất hạnh, không thấy một lời oán trách. Chỉ có kể lể, giãi bày, liệt kê những nỗi khổ đau, bất hạnh, cái "Bình đẳng" của kiếp chiến binh: "Chết" và "Sống như chết". Tính cụ thể, tính điển hình, tính khái quát trong kể lể, giãi bày này cũng rất tự nhiên mà chọn lọc. "Thương nhớ" gieo vào chúng ta nỗi ám ảnh khôn nguôi về những khốc liệt của chiến tranh, những hậu quả do chính con người đem lại. "Thương nhớ" đánh thức nỗi đau, lương tâm, trách nhiệm của cả nhân loại tiến bộ. Không phải ngẫu nhiên nhà thơ Nguyễn Bùi Vợi và Quang Huy chọn "Thương nhớ" là một trong ngót 200 bài thơ hay của thế kỷ hai mươi. Tôi hoàn toàn tâm đắc, tán thành với quan điểm và nhận định khái quát về thơ ở lời nói đầu của tuyển tập đã nêu:
"Thế nào là bài thơ hay thì không phải ai cũng cảm nhận như nhau. Sự cảm thụ ấy do trình độ nhận thức, trình độ văn hóa, gu thẩm mỹ, sự từng trải và tâm hồn của từng người quyết định.
Có bài thơ đọc xong, lòng ta rưng rưng muốn khóc. Có bài thơ câu chữ tinh tế, điêu luyện, niềm thích thú cứ reo vui trong lòng ta mãi. Có bài thơ giản dị mà thấm thía nỗi đời. Có bài thơ khơi dậy trong ta những cảm xúc mới mẻ, những ám ảnh khôn nguôi…". Và tôi đang khóc, và tôi đang chịu những ám ảnh khôn nguôi của "Thương nhớ".
PBA
Bài thơ viết về người chiến binh thời hậu chiến nhớ thương những đồng đội đã từng chia lửa, sống chết có nhau nơi chiến trường lửa đạn. Đó là lời nói chuyện của một người đang sống với những linh hồn của đồng đội đã chết bởi cuộc chiến ác liệt đã sớm cướp đi cuộc sống của họ. Nói và kể với người đã chết như nói và kể với người đang sống trước mặt. Kể và nói với bạn vừa thân mật, an ủi, vừa như có cả đùa cợt, khôi hài, chua chát, lạnh lùng trước những thực tế tàn nhẫn mà chính họ và đồng đội phải chịu đựng.
Hai khổ thơ đầu, ngôi thứ nhất "Tao" nói với ngôi thứ hai "Tụi bay" về chính "tụi bay", những người đã chết! Những đồng đội thân yêu của "Tao" đã bị chiến trận cướp đi giữa tuổi thanh xuân
"Thế là tao đợi chết già
chứ không chết trẻ như là tụi bay"
Cái chết đối với "Tao" (có thể là tác giả) quan niệm như một sự bình thường, kẻ trước người sau :"Thế là tao đợi chết già" chẳng hiểu đây là sự may mắn hay sự bất hạnh, tiếc nuối không được chết trẻ. Từ"Thế là" như sự an bài, còn từ"Đợi" như một sự mong ngóng. Thật là nghịch lý, xót xa. Vậy mà sự chết vẫn là một mất mát không mong muốn?
"Tụi bay đi… thật tiếc thay
Những thằng lính trẻ hây hây má hồng"
Quỹ sống của những người lính trẻ chết trận chẳng được là bao. Những chàng trai vừa lớn lên, dào dạt sức sống, đẹp đẽ thần tiên "Hây hây má hồng", đầy trong sáng, triển vọng và tương lai rực rỡ, đẹp như "những chấm hồng trong tranh". Những chàng trai chưa hề biết yêu, được yêu "Chưa biết phải lòng" nói theo cách nói cổ xưa, dân dã. Những chàng trai trẻ trung, mới lớn, sớm phải rời xa quê hương, gia đình, bố mẹ và những người thân; rời xa đồng ruộng, nhà máy, mái trường, lên đường ra tuyến lửa. "Thật tiếc thay" Phút chốc họ đã hy sinh trong lửa đạn
"Nhoàng một cái! thế là "xanh"
Chiến trường còn lại những anh lính già"
Tuổi trẻ hăng hái và dũng cảm. Họ dễ lập chiến công đấy! và cũng dễ hy sinh đấy. Một thời "dân lính" thường có câu "Chết xanh cỏ, sống đỏ ngực" như một sự xác định rất rõ ràng trước khi ra trận! và như một quy luật, cái mất đi và cái còn lại. Nghịch lý "lá xanh rụng xuống, lá vàng trên cây" ở trường hợp này là một lẽ đương nhiên xa xót.
Nói với người thân, bạn bè đồng đội đã chết, thuộc về cõi tâm linh, mà không cần cầu kỳ, khách sáo, trang trọng. Ở đây, ta thấy ngôn ngữ thân mật, bỗ bã, đầy chất trẻ trung, khôi hài pha sự riễu cợt chua chát, một thứ ngôn ngữ có cả chất "bụi", rất "quậy", rất "Lính". Các đại từ "Tao", "Tụi bay", "Thằng", những động từ, danh từ chỉ vận tốc thời gian, chỉ cái chết "Nhoàng một cái thế là xanh ", "Tụi bay đi…thật tiếc thay", đó là ngôn ngữ mà thường nhật sống bên nhau họ vẫn quen dùng.
Ba khổ sau, "Tao" (tác giả) nói với bạn bè "Tụi bay" đã mất, về những "thằng" "lính già" còn sống.
Lính già thắng trận về nhà
Bao nhiêu tội vạ tà tà chia nhau
Đó là những kẻ "Chiến thắng". Khi nói "Tà tà" "chia nhau; khiến ta quen gặp, quen nghe, tưởng như phải hiểu là hãy từ từ , đừng vội vã, ai cũng có phần. Đó hẳn phải là phúc phần, lộc phần vậy. Thế nhưng ở đây lại là họ chia nhau gánh vác tội vạ và bất hạnh, những di chứng, hậu quả của chiến tranh khốc liệt, tàn nhẫn! Không cười sao được? không khóc sao được khi "Tà tà " "chia nhau" như thế? xót xa thay! Ta hãy xem họ được chia và được hưởng những phần nào?
Thằng còn mảnh đạn trong đầu
Bỗng dưng quẳng áo đi đâu khỏi làng
Chỉ hai câu, đã nói rõ cả nhân quả. Vậy mà "Bỗng dưng", sao lại "Bỗng dưng"? Phải! Anh ta đang sống bình thường, anh ta bỗng điên, anh ta tâm thần, anh ta không còn là anh ta, anh ta không biết anh ta là ai? Sống mà không tỉnh, sống mà điên loạn. sống mà chẳng là người!
Và đây:
Có thằng nhiễm chất da cam
Đẻ con dị tật lại càng xót xa
Thoáng tân hôn vợ đã già
Có chồng thêm khổ, chẳng thà nằm không
Nhân và quả rõ ràng, không cần bình luận, giải thích, tự nó đã nói tất cả, một cách tường minh. Di hại của cuộc chiến đã để lại cho không chỉ một, hai thế hệ, con người bị thay đổi cả gien di truyền, có thể vô sinh hoặc cho ra đời những sinh linh tật nguyền, quái dị! Thực tế chúng ta đã chứng kiến không ít những mảnh đời, những số phận như thế mà những người lính hậu chiến phải gánh chịu, những người thân, những người ruột thịt của họ phải gánh chịu. Không hiểu hai câu cuối của khổ thơ là lời than vãn, sự gào thét của những người lính không thể làm chồng, làm bố, hay của những người phụ nữ không được làm vợ, làm mẹ, hoặc làm vợ mà không được làm vợ, không được làm mẹ? Than ôi! Một trong những Thiên chức và hạnh phúc của người phụ nữ là được làm vợ và làm mẹ. Bao nhiêu phụ nữ thời chiến đằng đẵng chờ đợi để thực hiện được hạnh phúc đó. Còn gì đau khổ hơn cảnh ngộ làm họ phải thốt lên"Có chồng thêm khổ chẳng thà nằm không".
Những người lính đã từng trải qua biết bao những thử thách cam go, gian khổ. Họ đã từng vượt qua bao rừng sâu, đèo cao, vực thẳm, bao nhiêu sông suối thác ghềnh. Họ đã từng xông pha trận mạc, anh dũng, kiên cường trước mưa bom, bão đạn. Họ đã đứng vững và chiến thắng. Vẫn những con người đó, thời hậu chiến, họ lại gặp những thử thách làm người, thử thách nhân cách, thử thách lòng dũng cảm chịu đựng những bất hạnh ngang trái khó lòng vượt qua. Chẳng những họ phải chịu đựng những bất hạnh của cuộc đời riêng tư, di hại chiến tranh mà họ còn phải chứng kiến và chịu đựng những thử thách, vấp váp nhiều bình diện của cuộc đời vốn có nhiều nghịch lý, bất công!
Đi đêm đâu lạc đường rừng
giữa đường cái rộng vấp xưng mặt mày
Ngủ trong hầm hố thì say
Chiến tranh vật vã ở ngay trên giường
Lại gặp hai câu thơ một, tương phản nhau. Cùng một sự việc, câu trên diễn ra trong chiến tranh, câu dưới diễn ra trong hòa bình.
Trong chiến tranh, dù đi trong rừng âm u, gai góc, giữa đêm tối, khó xác định đường lối, phương hướng chăng nữa, người chiến sỹ không bao giờ bị lạc. Ta hiểu cả nghĩa đen và nghĩa bóng của câu thơ. Đường hướng địa lý và đường hướng cuộc đời!
Vậy mà trong hòa bình, hậu chiến, dù đi trên đường rộng thênh thang, giữa ban ngày, người chiến binh một thời ngang dọc và đầy bản lĩnh đó, vấp ngã! tất nhiên ta cũng hiểu cả nghĩa đen và nghĩa bóng của sự vấp ngã này. Vấp ngã đường đi do tật nguyền chân, mắt? vấp ngã đường đời bởi nghịch cảnh éo le?
Trong chiến tranh, giữa bom đạn đe dọa sự sống, người chiến sĩ vẫn vô tư ngủ ngon lành trong hầm hố, dẫu ở đó chưa có gì đảm bảo chắc chắn cho sự sống. Hình như lúc đó chỉ có bom đạn là thử thách duy nhất người lính, dẫu khốc liệt nhưng không làm họ bất an một khi họ đã xác định sống chết là sự thường tình của người lính trận.
Trong thời bình, được nằm trên giường chiếu êm rộng, trong không gian yên tĩnh, trong tình cảm của gia đình, quê hương thân yêu thì họ lại phải "Vật vã", đau đớn, quằn quại, khốc liệt, bất an hơn rất nhiều lần những thử thách đạn lửa chiến trường. Làm sao có được những giấc ngủ ngon như ở hầm hố ngày xưa? Ta liên tưởng đến sự hành hạ của những cơn bệnh hiểm nghèo, cơn đau dữ dội bởi những tật nguyền, những thương tích mà người chiến sỹ phải đương đầu trên giường bệnh. Ta liên tưởng tới những nỗi đau thể xác và tinh thần của người chiến sĩ, kể cả những bất lực, mâu thuẫn và hậu quả đáng buồn trong chuyện gối chăn: "Chiến tranh vật vã ở ngay trên giường". Ta hiểu đây lại là trận chiến hơn cả những trận chiến họ đã từng gặp lúc chiến tranh. Đây là chiến tranh hơn cả chiến tranh! khó lòng chiến tháng.
Chúng ta dễ gặp những bài thơ lục bát, thể thơ như quốc thi của dân tộc ,đầy chất trữ tình, thơ mộng, hình ảnh đẹp, câu thơ nhuần nhụy, âm vận, nhạc điệu gợi cảm
"Thương nhớ" được viết dưới thể thơ lục bát quen thuộc, nhưng không thuộc loại bài thơ như vậy. Tuy nó không lộng lẫy văn chương, hình ảnh, từ ngữ, triết lý không cầu kỳ, cao xa, không có những yếu tố như nhiều bài lục bát hay gặp, nhưng ai đọc nó mà không rơi nước mắt. Bài thơ viết như nói, "ráo hoảnh" nhưng tràn ngập nỗi đau và tình "Thương nhớ" đồng đội, những số phận, kiếp người. Chẳng thấy triết lý truy tìm nguyên nhân cái chết hoặc những bất hạnh, không thấy một lời oán trách. Chỉ có kể lể, giãi bày, liệt kê những nỗi khổ đau, bất hạnh, cái "Bình đẳng" của kiếp chiến binh: "Chết" và "Sống như chết". Tính cụ thể, tính điển hình, tính khái quát trong kể lể, giãi bày này cũng rất tự nhiên mà chọn lọc. "Thương nhớ" gieo vào chúng ta nỗi ám ảnh khôn nguôi về những khốc liệt của chiến tranh, những hậu quả do chính con người đem lại. "Thương nhớ" đánh thức nỗi đau, lương tâm, trách nhiệm của cả nhân loại tiến bộ. Không phải ngẫu nhiên nhà thơ Nguyễn Bùi Vợi và Quang Huy chọn "Thương nhớ" là một trong ngót 200 bài thơ hay của thế kỷ hai mươi. Tôi hoàn toàn tâm đắc, tán thành với quan điểm và nhận định khái quát về thơ ở lời nói đầu của tuyển tập đã nêu:
"Thế nào là bài thơ hay thì không phải ai cũng cảm nhận như nhau. Sự cảm thụ ấy do trình độ nhận thức, trình độ văn hóa, gu thẩm mỹ, sự từng trải và tâm hồn của từng người quyết định.
Có bài thơ đọc xong, lòng ta rưng rưng muốn khóc. Có bài thơ câu chữ tinh tế, điêu luyện, niềm thích thú cứ reo vui trong lòng ta mãi. Có bài thơ giản dị mà thấm thía nỗi đời. Có bài thơ khơi dậy trong ta những cảm xúc mới mẻ, những ám ảnh khôn nguôi…". Và tôi đang khóc, và tôi đang chịu những ám ảnh khôn nguôi của "Thương nhớ".
PBA
Tuyệt vời, đọc bài thơ xong tôi không thể nào quên được hình ảnh người lính (dạng cùng lữa tuổi tôi hoặc hơn zăm ba tuổi) đã có sự công shieens tuổi xuân và cả tính mạng cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, Họ chiến đấu quên thân mình nhằm đưa lại một tương lại sán lạn (là hiện nay), thế những người lính trở về từ chiến trường (đồng chi và đồng đội với tác giả) đã và vẫn đang lục tìm cái tương lại đó những vẫn chưa thấy đâu cả, Biết khi nào sẽ thấy tương lai san lạn đó, Có thể họ ko tìm thấy vì có vị uan cấp cao nhất từng nhận định rằng: hết thế kỷ này cũng chưa thấy được !?
Trả lờiXóaÔng nào đó đừng bình thì hơn. Bài thơ thật hay, cảm nhận mỗi người mỗi khác, ngay cả mỗi người lính có đọc bài thơ này đều cảm nhận cũng khác, có anh lính nơi chiến trường, có anh lính nơi hải đảo, có anh lính nơi bốn bức tường với cái bàn cái ghế, Đọc bài thơ tôi như cảm thấy đồng đội của tôi đang ngồi bên mộ của những bạn chiến đấu đang nằm đó với tâm sự của người ở dương trần với người ở cõi âm, như ta thường chia sẽ nỗi niềm khi đứng trước bàn thờ người thân lúc muốn hỏi muốn chia xẻ điều gì vậy. phật dạy "đời là bể khổ" Không khổ vì cái này thì cũng khổ vì cái khác
Trả lờiXóaĐúng vậy?Cảm nhận mỗi người mỗi khác.Suy cho cùng cha ông ta thường khóc thế này:Lá vàng còn ở trên cây ,lá xanh....Tôi một người lính sống sót trở về ,tuổi cũng rất trẻ so với những người lính má đỏ kia?Và,đương nhiên cũng cắn răng đón nhận:đời với thằng còn sống là một bể khổ...Tuy vây vẫn luôn tâm niệm rằng:Sống vẫn hơn,dù đợi chết già?Chiến tranh nào cũng đau xót ,thương cảm với những người chết trẻ.Một bà mẹ xô viết khóc rằng:Ối con ơi!Con ra đi mà chưa biết mùi đời.Rồi nụ hôn đầu tiên và cũng là cuối cùng của cô y tá trong quân y viện...
Xóa