Chạnh lòng – tôi tin đó không chỉ là
cảm giác của riêng tôi mà của nhiều người Việt Nam khác khi từ
Singapore nghĩ đến đất nước mình.
Có nên so sánh?
So
với các nước tư bản Âu-Mỹ đương nhiên là không dám so vì người ta có
quá trình phát triển đi trước Việt Nam cả trăm năm. Còn một nước ngay
sát bên, cũng đồng văn đồng chủng Á Đông với mình, có một thời cùng
chung vận mệnh – mấy chục năm trước người ta cũng nghèo nàn lạc hậu
và lệ thuộc như mình – mà nay một trời một vực thử hỏi sao không băn
khoăn cho được?
Mà đâu phải mình thua thiệt gì người ta cho cam?
Người ta ở ngã tư, ngã năm thì mình cũng ngay mặt tiền - nằm ngay
khoảng giữa từ bắc xuống nam, từ đông sang tây của một trong những con
đường thông thương quan trọng nhất trên thế giới.
Đó là chưa nói
đất nước mình còn được cho là ‘rừng vàng biển bạc’, đất đai phì nhiêu,
sản vật không gì là không có, còn người ta từ lúa gạo, rau quả cho đến
nước ngọt tất tần tật các thứ đều phải mua của nước ngoài.
Mình
lịch sử mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước – ông cha để lại không ít di
sản, tinh hoa và trí tuệ - còn người ta nhiều lắm thì cũng chưa đến hai
trăm năm và đi lên từ chỗ gần như không đáng kể so với mình.
Mà
đâu có phải dân mình dở hơn dân người ta? Nếu thế thì đâu có chuyện số
lượng nhân tài người Việt đang làm việc và cống hiến ở Singapore lên
đến hàng ngàn và áp đảo tất cả các nước đông nam Á khác?
Dân mình
đông, nước mình lớn hơn người ta gấp mấy chục cho đến cả trăm lần mà giờ
này thu nhập bình quân đầu người của mình không bằng cái móng tay của
người ta thì hỏi sao không chạnh lòng?
So sánh như vậy ắt hẳn
không dễ chịu chút nào đối với một số người. Đành rằng mỗi nước mỗi
hoàn cảnh khác nhau và cũng không thể tính hết các yếu tố khác biệt
giữa hai nước nhưng ít nhất thấy người ta hay thế nào để biết mình còn
dở chỗ nào để khắc phục và được như người ta.
Đúng là chiến tranh
triền miên giết chết hàng triệu người và tàn phá đất nước không biết
bao nhiêu mà kể. Đúng là hoàn cảnh thế giới có lúc không thuận lợi với
không ít sự thù địch. Tuy nhiên nếu đổ hết cho hoàn cảnh mà không thấy
lý do từ chính bản thân thì là không chỉ là thiếu ngay thẳng mà còn
không chín chắn.
Singapore đi lên ngay từ đầu cũng có dễ dàng gì?
Nhưng Lý Quang Diệu từng nói: “Không ai nợ Singapore một sự sống”, cho
dù đó là người Anh đô hộ hay người Nhật chiếm đóng. Nói như vậy mới
thấy người biết đi lên bằng chính khả năng của mình thì luôn có thể vượt
qua nghịch cảnh có dù khó khăn đến đâu.
Vai trò người lãnh đạo
Cũng từ câu chuyện Singapore
- mới hôm nào còn nghèo nàn lạc hậu mà chỉ sau 30 năm đã giàu mạnh văn
minh như vậy – thì mới thấy nguyên nhân chủ quan và vai trò người lãnh
đạo, cái đầu tàu quan trọng đến mức nào!
Ở đây tôi muốn dẫn lời
một chính khách đối lập Singapore, ông Chiam See Tong, người từng một
thời là đối thủ của ông Lý Quang Diệu, nói khi đi viếng ông Lý:
“Singapore may mắn có ông Lý Quang Diệu là thủ tướng đầu tiên”.
Ông
Lý không phải là một thủ tướng bình thường. Ông là người cha lập
quốc. Ông là chính khách có sức mạnh bao trùm và tầm ảnh hưởng chi phối
cả một thế hệ - kiểu như Đặng Tiểu Bình ở Trung Quốc hay Lê Duẩn ở
Việt Nam.
Ở ông hội đủ các yếu tố làm nên một nhà
lãnh đạo lớn: Tài, Tâm, Tầm và Dũng khí. Sinh ra vào buổi loạn lạc,
nhiễu nhương, từ lúc nhà nước Singapore còn chưa có hình hài, ngay từ
đầu ông Lý đã nhận thấy trách nhiệm của mình đối với nơi ông sinh ra
và khi sứ mạng xây dựng đất nước giao vào tay ông, ông đã dành tâm huyết
cả cuộc đời cho nó.
Tài năng chính trị thiên phú, cộng với sự
mở mang nhờ môi trường giáo dục hàng đầu của phương Tây, cùng với những
năm tháng theo dõi chặt chẽ thời cuộc đã giúp cho ông Lý có tầm nhìn
vượt xa cái hòn đảo nhỏ bé của ông và trở thành một ‘người khổng lồ của
lịch sử’ như lời của Tổng thống Mỹ Barack Obama.
Thế nhưng, Tài,
Tâm hay Tầm cũng chưa chắc làm gì được nếu như ông Lý không có một bản
lĩnh không gì có thể lay chuyển được. Một khi ông đã đặt ra mục tiêu
gì thì ông bằng mọi cách phải thực hiện cho bằng được. Một khi ông đã
tin điều mình làm là đúng thì ai nói gì ông cũng mặc.
Nói tóm lại
ông Lý là người khởi xướng ‘dự án Singapore’ và ‘dự án’ của ông đã
thành công. Ông ra đi sau khi đã đặt tâm huyết cả đời ông vào thế hệ
tiếp nối mà ông tin tưởng.
Hoàn cảnh chiến tranh
Nhà chức trách Việt Nam thường phát động các phong trào 'học tập theo gương Hồ Chí Minh'.
Sau khi ông Lý qua đời, trên
các diễn đàn mạng, tôi nghe thấy không ít tiếng nói rằng phải chi Việt
Nam có được người như Lý Quang Diệu thì ngày nay sẽ không thua kém gì
Singapore.
Lịch sử do con người tạo ra nhưng dòng chảy của lịch sử
lại nằm ngoài ý muốn chủ quan của con người. Có những điều chúng ta
muốn nhưng chưa chắc đã được.
Hoàn cảnh lịch sử của Singapore đã tạo ra một người lãnh đạo như ông Lý Quang Diệu.
Còn
hoàn cảnh lịch sử của Việt Nam là hoàn cảnh chiến tranh nên tự khắc sẽ
cần những nhà lãnh đạo thời chiến. Một ông Lý được đào tạo bài bản với
những kiến thức được áp dụng cho thời bình, ở Việt Nam không thể nói
là không có nhưng có điều không có đất dụng võ.
Các thế hệ lãnh
đạo Việt Nam qua các thời kỳ đều là những người trưởng thành từ chiến
tranh. Chiến tranh tạo điều kiện phát huy sức mạnh của ý chí.
Rõ
ràng những nhân vật có học thức nhiều hơn, và do đó ôn hòa hơn, như Hồ
Chí Minh, Phạm Văn Đồng hay Võ Nguyên Giáp không có ảnh hưởng nhiều như
Lê Duẩn hay Lê Đức Thọ, vốn có tư tưởng cực đoan hơn, trong suốt cả một
thời kỳ.
Như trên đã nói, cố Tổng bí thư Lê Duẩn là người có thể
so với Lý Quang Diệu chỉ trong khía cạnh là chính khách có ảnh hưởng
trên hết đối với cả một thế hệ.
Thế nhưng ông Duẩn có thể lãnh đạo
chiến tranh rất giỏi nhưng trong thời bình, khi đối diện với thực tế
cuộc sống, khi mà ý chí không còn phát huy tác dụng, ông và những người
đồng chí của ông đã phá gần như tan hoang đất nước.
Cần lớp lãnh đạo mới?
Vấn
đề là, chiến tranh ở Việt Nam đã lùi xa được 40 năm nhưng thế hệ lãnh
đạo cho đến bây giờ vẫn là những người đi ra từ cuộc chiến đó.
Hơn
nữa, cẩm nang gối đầu giường của họ vẫn là tư tưởng Mác-Lênin – một
học thuyết đã không còn liên quan gì nhiều đến thực tế cuộc sống.
Cần
nhớ rằng ông Lý Quang Diệu không cần một chút gì của chủ nghĩa
Mác-Lênin mà vẫn xây dựng được đất nước phồn vinh và mức sống cao cho
người dân.
Tôi không rõ ngoài những lý thuyết về đấu tranh giai
cấp, 16 vị ủy viên Bộ Chính trị hiện nay liệu có nắm những kiến thức
về quản trị đất nước, có hiểu biết khoa học kỹ thuật, nắm rõ tình hình
thế giới và đoán trước xu thế phát triển của thời đại hay không?
Và
nếu như Đảng Cộng sản Việt Nam không sẵn sàng hoặc chưa sẵn sàng cho
những lãnh đạo kiểu như Lý Quang Diệu thì liệu họ có thể áp dụng
những bài học của ông Lý để biến Việt Nam thành Singapore thứ hai trong
vòng 30 hay 40 năm nữa?
Thật ra, tôi nghĩ rằng với tư cách là
đảng cầm quyền, Đảng Cộng sản Việt Nam cũng mong muốn đất nước phát
triển ngang tầm Singapore. Điều này thể hiện qua sự tôn trọng của Đảng
dành cho ông Lý và tinh thần cầu thị lắng nghe những lời khuyên của ông
đối với Việt Nam.
Dĩ nhiên, có những điều áp dụng tốt đối với một đất nước nhỏ bé như Singapore nhưng chưa chắc đã đúng ở Việt Nam.
Tuy
nhiên, có những điều mà tôi tin chắc rằng dù mong muốn đến đâu Đảng
cũng không thể học Singapore. Trớ trêu thay đó lại là những điều cốt lõi
mà ông Lý đã tạo dựng ngay từ đầu để tạo nên một đất nước Singapore
như ngày nay.
Bài học về các giá trị
Bài học thành công của Singapore rất nhiều chuyên gia đã phân tích và tôi không lạm bàn. Ở đây tôi chỉ
muốn nhắc đến những giá trị mà ông Lý đã tạo dựng cho Singapore và Thủ
tướng Lý Hiển Long đã nhắc đến trong điếu văn hôm đưa tang.
Đó là:
xã hội đa văn hóa, bình đẳng về cơ hội, tính chính trực, pháp trị và
nguyên tắc xứng đáng. Đa văn hóa là giá trị đặc thù của Singapore không
liên quan nhiều đến một xã hội gần như thuần nhất như Việt Nam.
Bình
đẳng về cơ hội thì tôi không tin cho lắm bởi lẽ tôi nghĩ rằng những cá
nhân có hoàn cảnh khác nhau tất sẽ có cơ hội khác nhau – người gia
cảnh đầy đủ được học hành đàng hoàng tất sẽ có cơ hội tốt hơn người
sinh ra trong bần hàn thiếu thốn.
Chính trực sẽ dẫn đến không tham
nhũng. Không lo tham nhũng thì sẽ làm việc hiệu quả. Chính phủ hiệu
quả thì công việc thông suốt. Hành chính công thông suốt thì doanh
nghiệp mới yên tâm làm ăn, doanh nghiệp lo làm ăn thì mới tạo ra nhiều
của cải vật chất cho xã hội.
Pháp luật trên hết thì không ai
dám làm càn. Từ ‘vua’ đến dân không ai có ngoại lệ thì xã hội mới an.
Luật pháp từ trên xuống dưới không suy suyển một mảy may thì ai cũng
sợ. Người nào cũng sợ thì sẽ không có điều trái quấy.
Tài năng và
sự cố gắng phải là động lực của sự thăng tiến, bất chấp xuất thân, gia
thế, địa vị và quan điểm chính trị. Khả năng đến đâu, phấn đấu thế nào
sẽ được tưởng thưởng đến đó. Có như vậy con người ta mới nỗ lực không
mệt mỏi ngõ hầu tạo dựng sự nghiệp và hạnh phúc cho mình. Từng cá nhân
vận động liên tục thì xã hội sẽ phát triển không ngừng. Mà trí tuệ
con người có thể làm được những điều không thể nào tưởng tượng được hết.
Điều
đó, theo tôi nghĩ, mới là sự công bằng nhất và bù trừ cho sự bất bình
đẳng về mặt cơ hội. Người có khả năng và biết cố gắng thì dù có xuất
thân trong gia đình buôn gánh bán bưng cũng sẽ tạo dựng được chỗ đứng
xứng đáng của mình.
Sao Việt Nam không làm được?
Ông Lý ngay từ đầu đã đặt tính
liêm chính lên hàng đầu và đã tạo ra cơ chế không thể sinh ra tham
nhũng. Còn cơ chế độc Đảng của Việt Nam nắm trọn của cải, quyền hành,
không ai giám sát ngay từ đầu đã là mảnh đất màu mỡ cho tham nhũng sinh
sôi nảy nở.
Mấy chục năm hết phê rồi chống Việt Nam đã gần như
bất lực trước tình trạng tham nhũng đã sâu rễ bền gốc, lan sâu ăn rộng
và vô phương cứu chữa.
Tham nhũng không những làm trì trệ sự phát
triển của đất nước đã đành mà bao nhiêu nguồn lực đổ vào cho tham nhũng
như gió vào nhà trống.
Đảng tạo ra pháp luật thì pháp luật có
thể trị ai chứ không thể đụng đến Đảng. Đó là chưa nói pháp luật tạo ra
là để bảo vệ Đảng. Đảng nắm hoàn toàn pháp luật trong tay thì khó đảm
bảo sự nghiêm minh của pháp luật trong những trường hợp ảnh hưởng đến
sự lãnh đạo của Đảng.
Anh có tài năng và phấn đấu hết mình thì
cũng không bằng được ông cha sắp xếp sẵn bởi lẽ chế độ độc Đảng cũng
đồng nghĩa với độc quyền mà độc quyền thì ai mà không tại điều kiện
cho con cháu của mình? Đó là chưa nói anh có quan điểm chính trị trái
chiều dù anh có tài đến đâu thì cũng đừng mong đóng góp cho đất nước.
Suy
cho cùng, ông Lý Quang Diệu là người gieo hạt giống tốt và từ hạt
giống đó mọc lên cành lá sum suê, đơm hoa kết trái. Các thế hệ sau cứ
vun tưới đều đặn thì sẽ luôn có quả ngọt mà ăn.
Đó là ví do vì
sao mà những người dân Singapore mà tôi tiếp xúc dù có thương tiếc ông
Lý Quang Diệu và dù ông Lý không còn nữa nhưng họ vẫn tràn đầy lạc
quan, tự tin vào tương lai với di sản ông Lý để lại.
Còn Việt Nam
từ hạt giống xấu sinh ra cái cây còi cọc èo uột thì liệu Đảng có dám
nhổ cái cây đi mà gieo hạt giống khác hay không?
Tôi tin rằng Đảng
không bao giờ muốn gieo hạt giống xấu cho đất nước mình mà chỉ muốn đưa
nhân dân mình đến một xã hội ‘không còn bóc lột’ mà Đảng tin là tốt
đẹp.
Nhưng còn người dân Việt Nam thì sao? Thấy đất nước
Singapore giàu có, trật tự, bình an như vậy họ có muốn nước mình, dân
mình được như Singapore hay không?
Muốn như vậy thì họ cần Đảng
cầm quyền cũng xây dựng cho được các giá trị ‘chính trực’, pháp trị’ và
‘xứng đáng’ cũng như Singapore chứ không cần đi theo con đường ‘đấu
tranh giai cấp’ làm gì.
Nhưng ở Việt Nam dù dân có muốn đến mấy mà Đảng không muốn cũng không được!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét