Tháng Năm 9, 2015 by Kim Dung/Kỳ Duyên
Tác giả: Nguyễn Văn Tuấn
KD: Đây là một bài viết rất thẳng thắn của GS nguyễn Văn Tuấn về cả phong cách lẫn ngôn từ của các bác lãnh đạo. Lời nói thẳng thì nghịch nhĩ, nhưng thật ra rất bổ ích. Tuy nhiên cũng phải nói thêm, là có lỗi của “cậu đánh máy”. Vì những bài phát biểu đó chắc chắn do các trợ lý giúp việc soạn thảo. Và vì thế, ngay bản thân những người giúp việc các bác lãnh đạo cũng cần phải đọc bài này.
Vì sao, các bài viết, phát biểu không bao giờ vượt ra khỏi những “khuôn vàng thứơc ngọc” kiểu này? Thì câu trả lời chỉ những người trong guồng mới hiểu rõ nhất.
Nhưng mình tin rằng, giả dụ đi, có một bác nào đó, phát biểu bằng cách nói vo, thẳng thắn, lay động tâm thức con người, chắc chắn sự truyền cảm sẽ mạnh hơn rất nhiều những lá… phao mong manh mà khô cứng, hình thức và già khụ vì tư duy cổ lỗ, sáo mòn :D
KD: Đây là một bài viết rất thẳng thắn của GS nguyễn Văn Tuấn về cả phong cách lẫn ngôn từ của các bác lãnh đạo. Lời nói thẳng thì nghịch nhĩ, nhưng thật ra rất bổ ích. Tuy nhiên cũng phải nói thêm, là có lỗi của “cậu đánh máy”. Vì những bài phát biểu đó chắc chắn do các trợ lý giúp việc soạn thảo. Và vì thế, ngay bản thân những người giúp việc các bác lãnh đạo cũng cần phải đọc bài này.
Vì sao, các bài viết, phát biểu không bao giờ vượt ra khỏi những “khuôn vàng thứơc ngọc” kiểu này? Thì câu trả lời chỉ những người trong guồng mới hiểu rõ nhất.
Nhưng mình tin rằng, giả dụ đi, có một bác nào đó, phát biểu bằng cách nói vo, thẳng thắn, lay động tâm thức con người, chắc chắn sự truyền cảm sẽ mạnh hơn rất nhiều những lá… phao mong manh mà khô cứng, hình thức và già khụ vì tư duy cổ lỗ, sáo mòn :D
--------------------
Tuần qua, có một câu chuyện liên quan đến Tổng thống Obama và
cậu học trò Osman Yahya 11 tuổi nói lên phong cách lãnh đạo. Số là cậu
Osman làm MC điều hành chương trình đối thoại trên tivi giữa TT Obama và
học của một trường trung học ở bang Maryland bên Mĩ, khi một học sinh
hỏi ông Obama có thích đọc sách không, và ông Obama bắt đầu trả lời rằng
ông mê đọc sách, thì cậu MC ngắt ngang rằng “Tôi nghĩ ông đã trả lời
hết câu hỏi đó rồi.” Ông Obama nói nửa đùa nửa thật rằng “OK, Osman nghĩ
rằng tôi nói dài dòng quá”, Osman vừa cười vừa nói “Không, không”,
nhưng Obama nói “thôi, mình tiếp tục”. Các bạn có thể xem video (1) để
thấy:
Câu chuyện có thể hiểu và nhìn theo nhiều góc cạnh. Nhưng tôi
thì thấy cái phong cách rất tuyệt vời của Obama, vì ông làm cho buổi
phỏng vấn rất thân mật, và quan trọng là ông cũng buồn phiền khi bị một
cậu học trò đáng tuổi con mình ngắt ngang và sửa lưng! Thử tưởng một vị
lãnh đạo Việt Nam mà bị một cậu học sinh nói “Thôi, ông nói dài quá, đủ
rồi”! Cậu học trò Việt Nam đó chắc bị nư đòn ?!
Sẵn dịp bàn về phong cách nói, tôi muốn chia sẻ cùng các bạn
vài nhận xét và phân tích của tôi về những phát biểu của giới lãnh đạo
VN. Có khi nào các bạn tự hỏi tại sao người ta không muốn đọc những bài
viết của giới lãnh đạo, và khi họ viết hay nói ra cái gì thì rất ít
người đọc. Người đọc thì chê (ví dụ như bài của vị nào đó trên
Vietnamnet bị dislike nhiều gấp mấy lần like). Tôi tự hỏi câu này rất
thường xuyên, và tôi rút ra vài đặc điểm thú vị dưới đây, mà tôi nghĩ có
thể giải thích tại sao những phát ngôn của lãnh đạo VN kém hấp dẫn. Đây
là bài viết còn ở bản nháp, và sẽ bổ sung khi nghĩ ra ý mới.
Những người lãnh đạo giỏi và có bản lĩnh họ không chỉ nói, mà
còn thực hiện những gì họ nói. Ngay cả cách nói, mỗi một lần phát biểu
họ đều để lại những câu mà báo chí có trích trích dẫn (quotable words)
hay làm cho người nghe phải suy nghĩ vì nó có cái wisdom trong đó. Chẳng
hạn như khi nói về những việc làm liên quan đến tai nạn máy bay MH17,
thủ tướng Úc nói “Mục tiêu của chúng ta là đảm bảo phẩm giá, sự tôn trọng, và công lí cho người quá cố và người đang sống.” Đó là một câu có thể trích dẫn.
Nhìn lại giới lãnh đạo VN, tôi thấy hình như họ không có cái
tư chất về ăn nói của chính khách phương Tây. Chính khách VN quen với
đường mòn chữ nghĩa mang đậm bản chất XHCN nên họ chỉ loanh quanh những
câu chữ quen thuộc. Họ không nói được cái gì cụ thể, mà chỉ xoay quanh
các khẩu hiệu quen thuộc, kiểu như “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh.” Đọc qua nhiều bài phát biểu của các lãnh đạo VN tôi
nhận ra vài đặc điểm chính (có thể chưa đủ) như sau:
Thứ nhất là tính chung chung, không có một cái gì cụ thể. Có
thể nói rằng thói quen phát biểu chung chung là đặc điểm số 1 của chính
khách VN, họ không có khả năng nói cái gì cụ thể, tất cả chỉ chung
chung, ai muốn hiểu sao thì hiểu. Ví dụ như phát biểu “Đặc biệt là,
tình hình Biển Đông hiện đang diễn biến rất phức tạp, nghiêm trọng, đòi
hỏi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta phải hết sức tỉnh táo, sáng suốt,
tăng cường đoàn kết, cả nước một lòng, kiên quyết bảo vệ độc lập, chủ
quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; đồng thời giữ vững môi trường
hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước.” Đọc xong
đoạn văn chúng ta chẳng có thông tin nào, mà tất cả chỉ là những mĩ từ,
giống như những khẩu hiệu được nối kết với nhau. Chúng ta cũng không có
thêm thông tin, ngoại trừ một chữ rất chung chung là “phức tạp”. Hai chữ
“phức tạp” có thể nói là rất phổ biến ở VN, đụng đến cái gì họ không
giải thích được, không mô tả cụ thể được, thì họ bèn thay thế bằng hai
chữ “phức tạp” mà chẳng ai hiểu gì cả. Cả một đoạn văn 74 chữ, chúng ta
không thấy một ý nào cụ thể và không thể trích dẫn bất cứ câu nào.
Thứ hai là dùng nhiều sáo ngữ. Ví dụ tiêu biểu cho đặc điểm này là bài nói chuyện nhân kỉ niệm 40 năm ngày kí Hiệp định Paris: “Hiệp
định Paris là đỉnh cao thắng lợi của mặt trận ngoại giao nước ta thời
kỳ chống Mỹ, cứu nước, là mốc son trong trang sử vàng của nền ngoại giao
cách mạng Việt Nam.” Chú ý những chữ “mốc son”, “sử vàng”, “mặt
trận ngoại giao”, tất cả đều là những sáo ngữ. Có một loại sáo ngữ khác
là chúng mang tính tích cực nhưng không có ý nghĩa thực tế. Vì dụ như
bài diễn văn nhân dịp kết thúc một đại hội đảng, có đoạn: “Sau hơn
15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII về văn hóa, tư duy lý
luận về văn hóa của chúng ta đã có bước phát triển …. Nhiều phong trào
văn hóa đem lại hiệu quả thiết thực. Truyền thống văn hóa gia đình, dòng
họ, cộng đồng… được phát huy.” Chúng ta chú ý thấy nào là “phát
triển”, “phát huy”, “hiệu quả thiết thực”, nhưng vì chúng không có một
dữ liệu cụ thể nào nên tất cả chỉ là rỗng tuếch về ý nghĩa. Thật vậy,
đọc xong đoạn phát biểu này chúng ta không thấy bất cứ một điểm cụ thể
nào để nhớ hay để làm minh hoạ. Chẳng có một ý tưởng nào để đáng nhớ.
Một trong những sáo ngữ chúng ta hay thấy trong các bài phát biểu là “đánh giá cao”. Ví dụ như “tôi cám ơn và đánh giá cao bài phát biểu rất tốt đẹp của Ngài Thủ tướng Hà Lan”, “tôi đánh giá cao và chân thành cám ơn sự hỗ trợ của Chính phủ …”.
“Đánh giá cao” hình như là một thuật ngữ đặc thù trong thế giới xã hội
chủ nghĩa nó vẫn còn sống sót đến ngày hôm nay. Thoạt đầu nghe qua “đánh
giá cao” thì cũng hay hay, nhưng nghĩ kĩ thì thấy câu này chẳng có ý
nghĩa gì cả. Thế nào là đánh giá cao, cao cái gì? Tôi thấy nó là một sáo
ngữ cực kì vô duyên và vô dụng.
Thứ ba là thiếu thông tin (lack of information). Có nhiều
lãnh đạo quen tính nói rất nhiều, nhưng nếu chịu khó xem xét kĩ chúng ta
sẽ thấy họ chẳng nói gì cả. “Chẳng nói” vì những gì họ nói ra không có
thông tin, tất cả chỉ là những câu chữ lắp ráp vào nhau cho ra những câu
văn chứ không có dữ liệu. Do đó, có khi đọc xong một đoạn văn chúng ta
chẳng hiểu tác giả muốn nói gì. Chẳng hạn như phát biểu về hiến pháp,
ông chủ tịch QH nói: “Chúng tôi cũng hiểu rằng một bộ phận, một số
người trong các tầng lớp nhân dân và ngay một số ĐBQH cũng còn ý kiến
khác. Tuy nhiên tuyệt đại nhân dân và Quốc hội có thể khẳng định đã đồng
tình cao với bản Hiến pháp thông qua lần này. Với quyền năng nhân dân
trao cho Quốc hội, chúng ta đã thể hiện được đại đa số nguyện vọng của
toàn dân, của Quốc hội với tinh thần làm chủ của nhân dân, chúng ta sẽ
biểu quyết theo tinh thần đó.” Câu cú và cấu trúc ý tưởng chẳng đâu
vào đâu. Lúc thì quyền năng nhân dân trao cho Quốc hội, lúc thì nguyện
vọng của toàn dân, của Quốc hội, lại còn đèo theo một câu “tinh thần làm
chủ của nhân dân”. Câu chữ đọc lên nó cứ như là nhảy nhót loanh quanh,
chẳng đâu vào đâu, và cuối cùng là chẳng có gì để nói!
Thứ tư là ngôn ngữ khẩu hiệu. Có thể nói rằng rất rất nhiều
bài nói chuyện và diễn văn của các lãnh đạo chỉ là những khẩu hiệu được
lắp ráp vào với nhau. Có những khẩu hiệu quá quen thuộc nên chẳng ai
chất vấn tính chính xác của nó. Ví dụ như câu “Trong niềm tự hào,
chúng ta thành kính tưởng nhớ và bày tỏ lòng biết ơn vô hạn với Chủ tịch
Hồ Chí Minh vĩ đại – vị lãnh tụ thiên tài, Anh hùng giải phóng dân tộc,
danh nhân văn hóa thế giới …”, có lẽ chẳng ai để ý đến chữ “danh
nhân văn hóa thế giới”. Nếu người bình thường phát biểu như thế thì chắc
người ta cũng lắc đầu bỏ qua, nhưng lãnh đạo mà phát biểu như thế thì
chẳng có gì sáng tạo, chỉ lặp lại những câu chữ đã có trước đây. Thật ra
thì ông cụ đâu được công nhận là danh nhân văn hoá thế giới.
Một loại ngôn ngữ khẩu hiệu khác mang tính tự hào. Tự hào là
một “đặc sản” của các vị lãnh đạo VN, đi đâu cũng nghe họ nói về tự hào.
Điều này cũng hiểu được, vì làm lãnh đạo thì phải gieo niềm tự hào vào
người dân. Nhưng gieo không đúng chỗ và gieo mãi thì có thể trở thành
phản tác dụng. Thử đọc bài diễn văn có đoạn “Chúng ta tự hào về đất
nước Việt Nam anh hùng, nhân dân Việt Nam anh hùng, tự hào về những con
người giản dị bằng những việc làm tốt của mình ở mọi lúc, mọi nơi đã góp
phần làm nên vẻ đẹp văn hóa của con người Việt Nam, đất nước Việt Nam;
góp phần quyết định để xây dựng đất nước ta ngày càng giàu mạnh.”
Tôi tự hỏi có cần quá nhiều tự hào như thế. Đất nước anh hùng, con người
anh hùng, vẻ đẹp văn hoá, v.v. nhưng tại sao đất nước vẫn còn nghèo và
phải “ăn xin” hết nơi này đến nơi khác và ăn xin kinh niên, con người
vẫn còn đứng dưới hạng trung bình trên thế giới. Thay vì tự ru ngủ là
anh hùng và giàu mạnh, tôi nghĩ lãnh đạo phải nói thẳng và nói thật là
đất nước vẫn còn rất nghèo, tài nguyên chẳng có gì, và cả nước đang phải
đương đầu với ngoại xâm.
Thứ năm là … tự khen. Từ tự hào quen dùng khẩu hiệu dẫn đến
tự mình khen mình là tài giỏi và vĩ đại, và đặc tính này tôi thấy khá
thường xuyên. Một ví dụ tiêu biểu là bài viết của Tổng bí thư Nguyễn Phú
Trọng nhân kỉ niệm 40 năm ngày 30/4: “Thắng lợi vĩ đại của sự
nghiệp chống Mỹ, cứu nước là thắng lợi của đường lối và nghệ thuật quân
sự Việt Nam dưới sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng.” Thật ra,
đó là tựa đề của bài viết, mà dài như thế! Nhưng một phần tựa đề này là
những khẩu hiệu chúng ta hay gặp trong suốt mấy thập niên qua. Cứ đề
cập đến đảng là phải kèm theo những tính từ như sáng tạo, lỗi lạc, đứng
đắn, quang vinh, vĩ đại, v.v. Tôi không bàn đến đúng hay sai về nội
dung, mà chỉ muốn nói rằng rất hiếm thấy một tổ chức hay cá nhân nào mà
tự khen như thế. Người Việt có câu “Hữu xạ tự nhiên hương”, nếu mình làm
điều tốt thì sẽ có người ghi nhận, chứ không cần phải tự khen như thế.
Tự khen 1 lần thì có lẽ cũng không đến nỗi tệ, nhưng tự khen hết năm này
sang năm khác, và tự khen khắp nơi như dàn đồng ca, thì rất dễ bị hiểu
lầm là một bệnh lí tâm thần. Nhưng rất tiếc đó là một thói quen của các
vị lãnh đạo, hay những người viết diễn văn cho các vị ấy.
Thứ sáu là loại ngôn ngữ hành chính hoá. Nếu chú ý kĩ chúng
ta sẽ thấy phần lớn những bài nói chuyện, bài diễn văn các lãnh đạo đọc
là họ nói với đảng viên, với quan chức, công nhân viên, với quân đội,
v.v. chứ không phải nói với người dân. Có lẽ chính vì thế mà ngôn ngữ
của họ thường mang tính hành chính. Có những chữ mà hình như họ sử dụng
quá nhiều nên chẳng ai để ý ý nghĩa thật của nó, như “Trong thời kỳ
đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, đối
ngoại phải tiếp tục là mặt trận quan trọng góp phần phát triển đất
nước, bảo vệ Tổ quốc.” Đối với người dân bình thường, ít ai hiểu
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập quốc tế là cái gì. Có thể nói đó
là những ngôn ngữ xa lạ đối với người dân.
Những bài diễn văn của các chính khác phương Tây thường rất
sinh động, thực tế, và có khi … vui. Chúng ta thấy nhiều lãnh đạo phương
Tây (tiêu biểu là Mĩ) khi họ nói chuyện dù là trong buổi lễ rất trang
trọng, mà họ vẫn làm cho khán giả vừa vỗ tay vừa cười. Khán giả cảm thấy
gần gũi với diễn giả. Ngược lại, những bài diễn văn của lãnh đạo VN
thường cứng nhắc, công thức, và lúc nào cũng tỏ ra hết sức nghiêm trọng
(dù sự việc chẳng có gì nghiêm trọng). Vì thế mà khi lãnh đạo VN nói
chẳng ai cười, có người lại buồn ngủ, tức là chính họ cũng cảm thấy nhàm
chán. Khán giả cũng có khi vỗ tay, nhưng là vỗ tay theo kịch bản hơn là
tự nhiên. Khán giả nghe họ đọc hơn là diễn. Một phần có lẽ do lãnh đạo
VN chưa quen với văn hoá nói, và/hoặc họ cũng muốn tỏ ra là người quan
trọng. Dù gì đi nữa thì những bài nói chuyện của lãnh đạo VN rất khó gần
với người dân do ngôn ngữ cứng đơ và kém thân thiện, và cách họ triển
khai bài nói chuyện quá xa rời công chúng.
Dĩ nhiên, những đặc điểm này không phải là độc quyền của các
lãnh đạo VN, mà thỉnh thoảng các chính khách phương Tây cũng vướng phải.
Khi họ vướng phải, người dân biết vị chính khách đó có vấn đề, hoặc là
không nắm vững vấn đề, hoặc là lúng túng. Vì không nắm vững vấn đề nên
họ nói chung chung. Có người nghĩ nói chung chung là nói “đa tầng”,
nhưng thật ra đó chỉ là cách nguỵ biện thô thiển. VN nói về hội nhập
quốc tế, nhưng với loại ngôn ngữ đặc thù XHCN trên đây, tôi nghĩ các
lãnh đạo VN sẽ rất khó gần với lãnh đạo thuộc thế giới văn minh. Hội
nhập cũng cần phải hội nhập về ngôn ngữ và phong cách.
Là người Việt, ai cũng muốn các lãnh đạo hay quan chức hay
người đại diện VN ra nước ngoài làm cho mình tự hào, chứ không muốn họ
có những phát ngôn hay hành vi làm mình không dám tự hào là người Việt.
Bài này hoàn toàn và tự thâm tâm không có ý chê trách, chỉ muốn góp vài ý
rất chân tình và mang tính cá nhân của tôi.
——————
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét