6 thg 10, 2012

Những đêm về sáng

“Nhiều” tác giả, 26-10-2010


Có những đêm về sáng.
Lòng sao buồn chi mấy cố nhân ơi.
Người chừ đâu để ta cô độc giữa cuộc đời. 
Ôi độc mã bơ vơ đồng cỏ biếc.

Như đêm nay một mình ta đơn chiếc.
Nghe sầu rơi nơi quán vắng cô côi.
Đếm tháng năm nghe đã thấm tủi rồi.
Ta lặng ngắt đi lang thang trên Net.
..........
Mắt ta mờ vì người hay khói thuốc.
Hồn ta say vì rượu đắng đời ta.
Hay ta say vì những dáng nuột nà?
Em đã đến khi ta đang hạnh phúc.
Cố nhân ơi! Đời biết bao tủi nhục.
Trận bão người nào biết lúc nao tan?
Đêm nay đây thánh thót vẳng tiếng đàn.
"Đêm thấy ta là thác đổ" làm ta càng thêm nhớ.

Người đã bảo ta" Đời người là phiên chợ"
Gặp gỡ rồi cũng có lúc li tan.
Nhưng ai mua những sầu nhớ ngút ngàn.
Để ta bán cho vơi lòng u uẩn.

Để không đêm nào hồn ta còn vương vấn.
Vào những đêm về sáng cố nhân ơi!

Nhặt trên Net.

5 thg 10, 2012

Nguyễn Văn Tý, ngồi thức với xa xăm

Tình bạn qua bài “Nguyễn Văn Tý, ngồi thức với xa xăm” của Nguyễn Quang Lập | 05.05.2010. (cọp y chang).

Kỉ niệm 35 Ngày thống nhất, cũng kỉ niệm luôn ngày sinh nhật của mình he he, mình ngồi ở quán Đođo với mấy anh chị em TNXP đồng đội năm xưa của Nguyễn Nhật Ánh, uống rượu và hát liên miên bài này sang bài khác. Mấy cô văn công năm xưa nay đã U50 rồi mà giọng hát vẫn trong vắt trẻ trung, mắt lúng la lúng liếng thật dễ thương.

Thích nhất hai bài Mùa xuân đầu tiên của Văn Cao và Dư âm của Nguyễn Văn Tý, mình bắt mấy cô hát đi hát lại hoài. Anh Nhượng (Nguyễn  Khắc Nhượng, nguyên TTK toà soạn báo Thanh Niên) ngồi cạnh mình, ghé tai mình nói cụ Tý bây giờ sống khổ lắm, nghe biết vậy chứ cũng chẳng hỏi gì thêm.

Mình không quen Nguyễn Văn Tý, duy nhất một lần thấy cụ ở Đồng Hới, hình như năm 1970 thì phải. Lúc đó cụ đã hơn 45 tuổi rồi mà vẫn rất phong độ, đẹp trai cực, miệng rộng môi tươi, cười có lúm đồng tiền sâu hoắm. Hồi này cụ đã nổi tiếng lắm rồi, dân Quảng Bình quên ai thì quên chứ Hoàng Vân và Nguyễn Văn Tý thì không bao giờ quên.

Khi cụ từ hội trường tỉnh uỷ đi ra, bao nhiêu cô nhìn cụ với những cái nhìn ngưỡng mộ thèm khát bốc cháy như muốn ăn tươi nuốt sống cụ, bảo đảm chỉ cần cụ vẫy khẽ cái là có cả chục cô chạy theo liền. Cụ nổi tiếng đào hoa, nhạc sĩ chuyên trị phụ nữ cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, những bài hát về phụ nữ của cụ đều hay, tất nhiên vô thiên lủng phụ nữ say mê cụ, khỏi phải nói.

Bài Dư âm là kết quả của cuộc tán gái bất thành của Nguyễn Văn Tý, hi hi. Năm 1950 khi cụ là đoàn trưởng đoàn văn công sư đoàn 304, cụ đến tán cô chị 21 tuổi nhưng cô em 16 tuổi lại mê luôn cụ. Cụ cũng chết mê chết mệt cô em, thả luôn cô chị. Gia đình tức lắm, cấm cung cô em, cấm cửa không cho cụ được đến nhà. Cái gì bí tất sẽ phát, bài Dư âm đã rời đời trong một đêm điên cuồng vì yêu của cụ. Chuyện này mình nghe qua radio trong taxi cách đây mấy năm rồi.

Hôm nay sinh nhật mình, Đỗ Trung Quân mang đến cho chai rượu, anh ngồi thừ, nói cụ Tý vừa gọi điện cho tôi, buồn quá. Mình hỏi sao, Quân nói từ ngày bị tai biến liệt nửa người, cụ sống một mình khổ nghèo buồn tủi, tội lắm. Cụ gọi điện cho tôi, nói Quân ơi mai ba mươi tháng tư có chương trình văn nghệ nào vui cho mình đi xem với. Cụ có cả một Hội nhạc sĩ, một tấn bạn bè  nhạc sĩ ca sĩ lại đi hỏi mình, nghĩ cái sự đời mà chán.
Nguyễn Văn Tý thời trẻ

Té ra Nguyễn Văn Tý ở rất gần chỗ mình, đi bộ chừng chục phút là đến nhà cụ. Mình gõ cửa, từ chỗ cụ nằm ra cửa không đầy bốn mét mà cụ phải đi chừng năm phút, đúng hơn cụ lết chứ không phải đi, toàn thân run lẩy bẩy, lúc nào cũng có cảm tưởng cụ sắp đổ xuống sàn. Duy nhất gương mặt đẹp lão vẫn còn tươi tỉnh còn tất cả đều tàn tạ, cả thân xác lẫn căn hộ ám khói nơi cụ sống.

Cụ chẳng biết mình là ai, có lẽ cụ chẳng đọc một chữ nào của mình, nhắc tên Nguyễn Quang Lập hai ba lần cụ chỉ nhăn răng cười trừ, nhưng mà cụ vui, vui lắm. Cụ lập cà lập cập đòi pha trà uống nước, mình ngăn mãi không được. Cụ nhìn quanh quất chép miệng, nói có lon bia mình uống mất rồi, không có mời Lập. Chỉ chừng ấy thôi mình biết cụ thèm khách đến nhường nào.

Mình hỏi bạn bè có hay đến thăm anh không (giới văn nghệ ai lớn tuổi hơn mình đều gọi bằng anh, không chú bác gì hết), cụ cười nhẹ khẽ lắc đầu, nói chỉ còn một thằng thôi, thằng này tháng nào nó cũng đến thăm, cho hai trăm ngàn, tháng nào nó bận không đến thì tháng sau nó cho bù bốn trăm.

Mình ngước lên bức tường thấy bức ảnh cụ chụp chung với nhạc sĩ đại ca được phóng to treo rất trang trọng. Mình biết nhạc sĩ đại ca là bạn chí thiết của cụ từ hồi chống Pháp, hơn nửa thế kỉ chia ly nay cả hai đã gặp nhau, sống cùng thành phố. Trong khi cụ đã tàn tạ, đếm ngày xuống lỗ thì nhạc sĩ đại ca vẫn rất hoành tráng, tiền nhiều như quân Nguyên.

Mình chỉ tấm ảnh cười cười, nói Đại ca không đến thăm anh à? Cụ  cười hiền lành, nói thằng đó thì tính làm gì. Thời kháng Pháp nó ốm nặng, nằm ở nhà mình cả tháng. Mẹ mình có đàn gà 12 con, lần lượt thịt từng con một nấu cháo cho nó ăn, ăn đến con thứ 12 nó ngước lên hỏi mẹ mình một câu lạnh tanh, nói đây là con cuối cùng à. Thế thôi.

Tưởng đến chết nó cũng không thể quên chuyện đó, chẳng ngờ anh em gặp nhau, nhắc đến chuyện cũ nó không hề nhớ gì, ngơ ngác hỏi gà nào nhỉ gà nào nhỉ? Đỗ Trung Quân ngồi cạnh, nói chú có biết Đại ca viết hồi kí nhắc đến chú thế nào không? Cụ lắc đầu nói không, Quân nói Đại ca viết nguyên xi thế này nhé: “ Tôi nhớ ngày đó trong văn công có một anh cán bộ tên là Tý, có làm nhạc..” Chú lừng danh với bài Dư âm trước cả khi gặp Đại ca, đúng không. Bạn bè thân thiết mà nói vậy là không có được.

Cụ cười khì khì, nói nó còn nhắc tên Tý là may lắm rồi. Rồi cụ ngước nhìn ra cửa sổ khẽ thở dài, nói bạn bè mỗi đứa một nết, trách nhau thì trách cả ngày. Mình nhìn cụ thấy thương thương, chợt nhớ chuyện Quân kể năm ngoái chương trình âm nhạc của Đại ca được làm rất hoành tráng, vé bán hai triệu đồng một cặp,  không được Đại ca cho vào danh sách khách mời nhưng cụ vẫn đến. Có người nói người ta đã không mời, anh đến làm gì. Cụ nói chương trình âm nhạc của bạn tôi tại sao tôi không đến.

Cụ đứng rúm ró ở cửa nhà hát không biết làm sao có được cái vé, may gặp Đỗ Trung Quân, anh kéo cụ vào, nói cháu cũng không có vé nhưng cháu xin vào được. Quân xin bảo vệ cho vào, bố trí cụ ngồi một ghế trống, nói chú cứ ngồi đây, nếu có ai đến đòi ghế chú cứ dơ tay lên là cháu vọt tới liền. Cụ ngồi thắc thỏm không yên, hễ có ai tới gần là cụ nhỏm dậy lúng ta lúng túng. Trong khi Đại ca bận rộn bắt tay bắt chân quan khách thì cụ ngồi lo bị đuổi ra khỏi ghế.

Một cặp vợ chồng trẻ đến, nói chú ngồi lộn ghế tụi cháu rồi. Mặt cụ tái nhợt, nói vâng vâng rồi ngồi đực mặt không biết làm gì. Đỗ Trung Qúân vọt đến, nói đây là nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý, cụ không có vé. Cặp vợ chồng trẻ mắt trố miệng há, nói vậy mời chú ngồi, vợ chồng cháu ra sau đứng cũng được, nước mắt cụ dàn dụa, nói may quá may quá…

Quân  nhắc lại chuyện này, nói đó, chú thấy chưa, đời vẫn yêu chú lắm. Cụ mỉm cười lặng lẽ, cất giọng run run hát bài Ru người trăm năm, lời thơ của Trần Mạnh Hảo-Ngủ đi người của anh ơi. Xin nhờ làn gió về nơi em nằm. Anh ngồi thức với xa xăm. Ðến em phải vượt hàng trăm tinh cầu… Cách xa như đất với trời. Ðêm đêm anh lặng ru người trăm năm.

Đang hát cụ chợt dừng lại ngồi yên, nước mắt rân rấn. Mình nói sao thế anh, cụ lặng lẽ nhìn mình, nói tự nhiên nhớ bạn, bạn bè mình nhiều lắm.

Bài ca "Dư Âm" ca sĩ Quang Dũng trình bày, thể loại Trữ Tình - chất lượng 128kb
http://www.nhaccuatui.com/nghe?M=3PPYpVADBs

Tin buồn


(Email) Từ: VŨ THẢO NGỌC <vuthaongoc.vn@gmail.com>
Tới: Pho Thuong Dan <danphothuong@yahoo.com.vn>
Đã gửi 9:51 Thứ Sáu, 5 tháng 10 2012

    Lão hớn ha hớn hở ơi, con trai lão Trần Quang Ngân bị tai nạn xe máy mất, chiều này (5/10/2012) đưa ma cháu, em báo lão thế, chắc lão biết rùi. Huhu…

    09:50 05/10/2012

2h chiều nay (5/10) nhà mình - honngv- mới có điện và mới đọc được tin này qua Email của nhà văn Vũ Thảo Ngọc (trước cùng công tác với TQN ở Quảng Ninh). Mình điện ngay ra chia buồn với Ngân và biết sơ sơ: Con trai Ngân năm nay 21 tuổi. Đang đi xe máy, bất ngờ 1 xe đạp đi ngang qua đầu xe, con Ngân cố tránh nên bị ngã đập đầu xuống đường, không cứu nổi. Tiếc quá. Cầu vong linh cháu được siêu thoát!

Nghe nói ngay chiều 5/10 Trần Thành Đô và Thẩm Ngọc Huy đã ra dự lễ tang cháu.

3 thg 10, 2012

Hàng Trung Quốc không bền

Một đàn ông Trung Hoa sang làm ăn sinh sống  ở xứ châu Phi, và lấy 1 người vợ người bản xứ. Rồi họ sinh được 1 đứa con.
Hai tháng trôi qua, tai họa giáng xuống gia đình họ: đứa con mới sinh của họ đã phải lìa đời.
Trong đám tang đau thương, người mẹ xấu số vừa khóc, vừa luôn miệng thổn thức: “TÔI ĐÃ BIẾT NGAY RỒI MÀ!!!”.
Người thân trong gia đình nhẹ nhàng lại gần người mẹ an ủi “CHỊ ĐÃ BIẾT CÁI GÌ?”
Người mẹ xấu số òa lên nức nở: "HÀNG TRUNG QUỐC ĐÂU CÓ BỀN”.

Xin góp vui thêm cùng bác Quốc:

Hai h/s tiểu học nói chuyện:
-       Nghe nói cô mời bố mày lên fản ánh hành vi của mày ?
-       Ừ.
-       Kết quả sao rồi ?
-       Tao kg biết, nhưng cô mời mẹ tao để fản ánh hành vi của bố tao.
-       Bố tao mà biết chuyện này thế nào cũng bắt tao bắt chước mày.

2 thg 10, 2012

Đàn bà “xấu không có quà, đẹp vơ lấy tất cả”


... Rõ ràng đàn ông sinh ra trên đời, tự mình phân chia thứ bậc, sau đó phần lớn yên tâm với hạng mục của mình, mặc dù đa số những danh phận đó nhỏ bé đến thảm thương. Đàn bà không thế. Đàn bà theo quan niệm: “Xấu không có quà, đẹp vơ lấy tất cả”.


Đàn bà xấu sẽ không có quà, chỉ có
đàn bà đẹp vơ lấy tất cả (Ảnh minh họa)
Do đó, đàn bà suốt đời đấu tranh, suốt đời tranh đấu vì suốt đời ghen ghét, thế mới tuyệt vời! Nếu bạn đặt một gã đàn ông trên ghế, mười năm sau quay lại vẫn thấy gã ngồi. Còn nếu bạn đặt một người đàn bà, ba ngày sau quay lại đã thấy hoặc cô ta nằm trên ghế, hoặc ghế nằm trên cô ta. Còn mười ngày sau quay lại đã thấy ghế tan tành.

Lịch sử loài người đã chứng minh rằng xa xưa có các nữ chiến binh Amazon cưỡi ngựa, bắn cung và múa gươm rất phi thường, chinh phục rất nhiều lãnh thổ. Nhưng tại sao họ không ra trận nữa? Tại nếu họ còn chiến đấu, thế giới sẽ không khi nào có một ngày yên bình.

Hiểu rõ chân lý này, ta sẽ thấy bất hạnh thay cho thiếu nữ nào vào một công ty mà sếp là phụ nữ. Nếu cô ấy dại dột đẹp và trẻ thì số phận đã rõ ràng. Cô ta sẽ không khi nào ngoi lên được và cũng không khi nào ra được. Cô ta đã lãnh án chung thân.

Tại sao không có phụ nữ làm cảnh sát giao thông? Tại vì khi ấy tất cả các chị em đều phải nộp phạt. Tại sao hoa hậu không làm việc ở phòng thuế? Tại vì khi ấy tất cả các cô gái đẹp đều bị truy thu. Tại sao giám thị ở trại giam nữ phải là phụ nữ? Tại vì khi ấy đố đứa nào trốn thoát.

Cảnh sát Mỹ đã làm một cuộc thống kê, cho thấy hầu như tất cả các vụ cướp nhà băng do phụ nữ cầm đầu thì thủ phạm luôn chọn những nhà băng có nhiều nhân viên nữ mặc dù số tiền ở trong đó ít hơn. Điều ấy chứng tỏ phụ nữ không cần tiền mà cần trả thù là chính.

Mục đích của bài viết này là để giải quyết một vấn đề bao nhiêu năm nay xã hội vẫn nhầm lẫn. Đó là trong gia đình, không phải các bà vợ khổ vì ông chồng, mà khổ do có cô khác sướng hơn!


(Chú ý: thưa các bà các chị các em k14vt! các bà các chị các em cần đọc kỹ “Mục đích của bài viết này” để kg hiểu nhầm ý người đăng. Bài viết này hoàn toàn kg có ý ‘nói xấu’ chị em mà chỉ ‘nhắc nhở’ chị em mà thôi. Hihi… - honngv).

@ nhặt trên NET

30 thg 9, 2012

Lời đáp bài “Bạn tôi”


Gõ đại bởi honngv, 9/2012 

Ông giáo già thân mến!

Tôi vốn ‘ít chữ nên ngữ fải dài’, có lẽ ngày còn học fổ thông với ông đã có lần nào đó vinh hạnh được ‘cầm nhầm’ bút của Cụ Trường Chinh! (xin lỗi, mong Cụ đại xá, đại xá). Vậy vài dòng lan man, bỗ bã fa chút bông fèng, đặng làm rõ thêm vài ý, mong ông và các ‘chiến hữu’ lượng thứ.

Như ông thấy, do thiếu hấp dẫn, chủ blog kg viết được bài, điều nhay nháy lại fải tránh nên hiện giờ số lượng thành viên của blogk14vt rất ít, mặc dù hầu như mọi người đều đã chuyển sang ngành mẫu giáo và cái tình với nhau thì ‘gừng càng già càng cay’. Muốn rằng lúc này con mắt còn nhìn thấy chữ, cái tay còn gõ được mổ cò, cái đầu còn minh mẫn, thậm chí chưa fải đeo kính thì nên sẻ chia, trao đổi… cùng nhau trên blog, kẻo cái gìa nó sồng sộc đến. Vì vậy tôi mượn câu thành ngữ "Không có chỗ cho người già" của Mỹ là có ý đó. Còn tại sao lại chọn câu ấy, vì nó chính là tên của 1 bộ fim hành động Mỹ có nội dung fù hợp.

Trong bài “Bạn tôi” ông đã chấm fá vài nét cơ bản và rất chính xác về ông bạn của ông. Để đơn giản, từ đây ta gọi ổng là ‘hắn’ cho… ‘đại tiện’.

Hắn tuổi Canh Dần, (cùng tuổi Nghị Hách! hihi..), mạng Mộc. Vận vào hắn fải mang fận canh quả, thân cô thế cô. Trước khi hắn được sinh ra trên cõi đời này, hắn đã có gần chục người anh người chị. Hắn bảo các chú hắn nói thế. Đáng ra trên đời này không có hắn. Nhưng tất cả anh chị hắn người thì mất ngay khi còn bé, người thì mất do nạn đói năm Ất Dậu (1945). Hắn và em gái hắn là út ít. Để tránh xui xẻo như các anh chị hắn, cực chẳng đã, các Cụ chọn cái tên thật xấu đặt cho anh em hắn. Vì thế hắn mới đội cái tên Ng. Văn Hớn, cùng hy vọng đời anh em hắn sau này 'hớn hở' nhiều hơn 'xụt xịt'. Khi hắn vào Bách khoa (BK), hắn cũng kg dám đổi tên vì kg thể biết bố mẹ hắn có chấp thuận hay kg!

Rồi đúng như ông nói, ơn Trời, trong Cõi Tạm, lên cấp III hắn được học cùng ông, rồi cùng các bạn hắn ở BK. Ra trường hắn cũng thuộc dạng ‘dành cho quân đội’. Nhưng rồi hắn chẳng làm ‘to và oách’ như ông đùa vui đâu. Phải nói rõ vậy vì hắn thì hiểu ông, nhưng e trong số bạn k14vt với hắn chưa biết ông, lại nghĩ khác đi thì ‘oan’ cho hắn lắm. Còn việc ‘nện gót giày vỉa hè Hà Nội’ có fần sát ra fết, hắn chẳng kể mà sao ông ‘tỉa’ như Thần. Thuở ấy, thuở ấy… ấy hắn từng ngâm nga: Hà Nội mình đâu cũng dấu chân ta. Kinh.

Ông viết: ‘Vào blog, thấy lão hát: 'Giá tôi đừng ước đừng ao / Thì đâu đến nỗi lạc vào bến mê!. Hắn mượn lời người khác đấy! Tôi cuộc với ông: nếu giờ hỏi hắn cho ước cho mơ lại hắn còn giám kg? Hắn sẽ nói: giám! Khiếp chửa!

Ông viết: ‘Hôm nay lại thấy lão nhớ Trung Thu…’. Ông tán về hắn hay và chỉ có đúng mà thôi. Thật ra ý vài ‘câu thơ’ ấy đơn giản lắm. Nhưng ai hiểu thế nào cũng được. Đúng như ông nói ‘chui vào blog làm chi cho cơ khổ’! Trong lúc đưa cháu đi chơi Trung Thu, nhìn cảnh các cháu vui chơi hồn nhiên và quá đỗi vô tư, chạnh lòng nghĩ tới 'nhân tình thế thái' mà lòng không khỏi ngậm ngùi cho tương lai của chúng. Trung thu nào trăng mới sáng thật?! Lại nghĩ về blog mà nhớ đến các bạn hắn, buộc hắn ‘thả tiếng tơ lòng’ : 'Trung Thu thả tiếng tơ lòng / Buồn trông Con Tạo xoay vòng ra sao!' Nhân tiện kết hợp làm 'đường dẫn' cho 2 đoạn thơ fía sau luôn.

Đoạn ‘Tơ lòng 1’ hắn ví các bạn k14 của hắn như Chị Hằng, mỗi người 1 nơi, cao, xa, chẳng blog bliếc gì, tự trở thành ‘đơn côi’ (so với dùng internet, hắn nghĩ thế), làm cho blogk14 ‘hoang vắng’. Đơn giản hì!

Tơ lòng 2” hơi ích kỷ 1 chút, kẻ làm người hưởng. Chú Cuội – những kẻ ‘đầu fa bã đậu’ như hắn ‘cả đời chăm sóc cây đa’. Trăng – những kẻ còn lại. Còn Chị Hằng ? Liệu Trăng với Chị Hằng có là một khi hắn ò e: 'Trung Thu tìm bóng Chị Hằng'? hehe...

Như ông nói, hắn có nhớ chị Hằng, có ‘tiếc đời’? Nói cho nhanh: tiếc chứ. Tiếc: chân dài về hưu thì ít (cứ nói thế cho logic câu chữ!) mà víu (mượn chữ của thằng Phẹt, nỏ biết nó có ưng hay kg) dài thì nhiều. Dài đến độ nếu muốn thoát khỏi bụi trần, bóp cò “bùm” fát vào đầu víu mong trúng tim mà nỏ chết cho, lại bể đầu gối. Khiếp. Chả thế mà có bố đã fải kêu lên rằng: 'Ngoài đường sợ nhất công nông / trong này sợ nhất gái không mặc gì'. Còn lũ chưa về hưu thì nếu có cơ chạm trán lại tơn tơn: ‘trán bác rắn thế’! Lộn ruột, fọt hẳn 1 tràng: 'Trông xa tưởng bác đã già/ đến gần chỉ đáng gọi là chú thôi/ cầm tay đích thị anh rồi/ ngả lưng nằm xuống là tôi với mình'. (Vui xuống cấp – Trần Mạnh Hảo). Xong, theo binh fáp Tôn Tử, thượng sách là… té. Hơn nữa, bọn này chúng thường hay du dương mà ca rằng: - lương hưu ‘chú’ nhận mấy lần? - Ô... hố, Biến!

‘Sơ sơ’ thế ông nhỉ! Ông khỏe nhé! Tôi fắn đi ngáy đây.

29 thg 9, 2012

Bài viết của ông bạn già


Lâu lắm rồi mình đã xem bộ fim hàng động Mỹ "Không có chỗ cho người già" - “No country for old men”, (mình ẻ vô tiếng Anh nhưng fải cọp nguyên bản ra thế kẻo lại bảo mình bốc fét, hehé...). Đây là câu thành ngữ của Mỹ mà nhà làm fim đã lấy làm tiêu đề đặt cho bộ fim của mình. Cần phải nói bộ phim này hay và nhiều ngụ ý, nó phơi bày một sự thật trần trụi: Bất cứ ai, dù đã có lúc thành công, đã có lúc là trung tâm của mọi sự kiện thì rồi cũng có lúc và sẽ đến lúc mệt mỏi, cạn kiệt, bất lực...

Ừ, hay. Không có chỗ cho người già! Không có chỗ cho người già!...

Đồng cảm 'nỗi chung', ông bạn già lại đang mang bệnh ở quê đã vã mồ hôi, sôi... 3 cốc rượu gõ đôi dòng trong blog của ổng thế này về mình. Cọp sang đây mong nhận đc sự sẻ chia từ các bạn. Thật lòng cảm ơn ông bạn!

Bạn tôi.

Nữ sinh K14 - Khoa Vô tuyến ĐH Bách Khoa HN (1969-1975).
                        Bạn Ông chủ blog k14vt.
Tôi có bạn, đại tá quân đội đã về hưu. Xưa ông học cùng trường huyện (1966). Nhà nghèo, mồ côi bố mẹ. Ông có một em gái, anh em ông được Cụ đặt cho cái tên với ước mong giản dị của tổ tiên xưa. Tên là Văn Hớn (em gái tên tục là Hở, vì xưa không có lệ đặt từ ghép nên em đã đổi tên là Luyến), anh em ông  đầy cơ khổ.

… Ông kể, đi cày về thấy có giấy báo vào đại học Bách khoa (khoa Vô tuyến điện tử hồi đó oách lắm), chỉ biết đó là ở Hà Nội và đi tầu hỏa lên đó...

Ơn trời, trong cõi tạm, rồi đến đầu năm 1975, có bằng kỹ sư BK, ông vào quân đội, làm to và oách lắm, giầy “côsơgin” thuở nào nện rầm rầm vỉa hè Hà Nội, “sau lưng thềm nắng lá rơi đầy”. Cũng nhờ đó mà lấy được vợ, các cháu đã trưởng thành, ông lại lên chức Ông Nội (bỏ qua chức ông tướng). Về hưu, lập bờlốc bờleo, cái “ních” rất ta đây: phothuongdan; lập đến 3 blogspot, nhà văn (Quechoa) còn tặng sách. Ông cùng bạn bè tụ tập, để nhớ xưa, nhớ cái thiên đường của cuộc sống sáng trong không vụ lợi, của một thời bom đạn dữ dội- chỉ biết trong ước mơ bằng những câu hát cực kỳ buồn bã.

Bây giờ ông (lão) hưu, lúc nào cũng thấy cầm điếu thuốc, tạng gầy còm dặt dẹo, nhưng thấy còn tí tởn lắm.

Vào blog, thấy lão hát:

Giá tôi đừng ước đừng ao,
Thì đâu đến nỗi lạc vào bến mê!

Hôm nay lại thấy lão nhớ Trung Thu, mà lại chỉ nhớ chị Hằng cô đơn. Không biết là thèm nhạt hay buồn thế sự. Tôi khuyên lão, nếu có “tiếc đời”, chỉ cần ông ra ngoài nhà, phố Hà Nội ối “mặt hằng” cho niềm tâm sự “khát khao” nghe các “chân dài về hưu” vừa nặn mụn cá vừa tỉ tê “… đã kỳ lương hưu mà sao không thấy anh…”.

Lão chui vào blog làm chi cho cơ khổ.

Ôi nỗi chung, những người bạn cùng thời!

*****
Một bài thơ hai đoạn đầy tâm sự của lão. Các Bạn đọc để cùng vui buồn, mát mặt ngắm Trăng Thu.

Tơ lòng I
(Blog k14vt)

“Trung thu trăng sáng như gương” (1)
Em ngồi em ngắm nhớ thương Chị Hằng
Một mình treo tận cung trăng
Khiến đời hoang vắng quá bằng đơn côi...

***

Tơ lòng II

Trung Thu tìm bóng Chị Hằng
Lại thương Chú Cuội nhọc nhằn quá xa
Cả đời chăm sóc cây đa
Để cho Trăng sáng, nhởn nha tung hoành !

(1) Câu thơ trên bài báo “Tết Trung Thu với nền độc lập”, Bác Hồ  viết trên báo Cứu quốc số 45, ngày 17, tháng Chín, năm 1945 gửi các cháu thiếu nhi.

Nguồn: http://vanthekt.blogspot.com/2012/09/ban-toi.html

Cổ thụ




17/03/2012, hoamai1

Ngắm cổ thụ gần trăm tuổi
Xuân về bật nảy chồi non
Lá xanh ngời ngời sức sống
Mà nghe xao xuyến trong hồn.

28 thg 9, 2012

Trung Thu Nhâm Thìn


Trung Thu thả tiếng tơ lòng
Buồn trông Con Tạo xoay vòng ra sao!
 
Tơ lòng I

‘Trung thu trăng sáng như gương’ 
Em ngồi em ngắm nhớ thương Chị Hằng
Một mình treo tận cung trăng
Khiến đời hoang vắng quá bằng đơn côi...

***
Tơ lòng II

Trung Thu tìm bóng Chị Hằng
Lại thương Chú Cuội nhọc nhằn quá xa
Cả đời chăm sóc cây đa
Để cho Trăng sáng, nhởn nha tung hoành !


27 thg 9, 2012

Phiếm đàm cấm chị em vào


Nhặt trên Nét

1. Chàng yêu nàng từ thuở nàng mười lăm mười sáu tuổi. Cả hai lén lút đi lại, quan hệ, quậy gia đình, trốn nhà đi, dọa chết nếu không được chấp nhận. Nếu quan hệ ấy kéo dài một năm, được gọi là phạm pháp, dụ dỗ trẻ vị thành niên, có nguy cơ ra tòa thụ án. Nếu mối tình ấy kéo dài ba năm, được gọi là yêu trộm, tình yêu oan trái. Nếu mối tình kéo dài sáu bảy năm, sẽ được gọi là tình yêu đích thực, vượt núi trèo đèo qua bao khó khăn để yêu nhau.

Kết luận: Bạn làm gì chả quan trọng, quan trọng là bạn làm được trong… bao lâu!

2. Một nàng cave, nếu ngủ với thợ thuyền hoặc lao động ngoại tỉnh, thì bị gọi là đối tượng xã hội. Nếu ngủ với đại gia lừng lẫy, thì được gọi là chân dài. Nếu ngủ với một ngôi sao sân cỏ hoặc màn bạc, sẽ được đường hoàng lên báo kể chuyện “nghề nghiệp” và trưng ảnh hở da thịt cho công chúng, không ai có ý định bắt nàng.

Kết luận: Bạn làm gì chả quan trọng, quan trọng là bạn làm điều đó với ai!

3. Phòng tắm công cộng bỗng dưng bị chập điện gây hỏa hoạn lớn, vô số chị em chạy túa ra đường mà không kịp mặc gì. Những nàng thông minh là người không lấy tay che thân thể, mà lấy tay che… mặt.

Kết luận: Hãy quan tâm tới mấu chốt của mọi vấn đề.

4. Một nàng gái ế chạy tới đồn cảnh sát tố cáo: “Tôi đã cẩn thận để tiền trong áo lót, thế mà thằng cha đẹp trai đứng cạnh tôi ở trên xe bus đông đúc đã móc lấy mất tiền của tôi!”. Cảnh sát ngạc nhiên: “Tại sao nó có thể móc tiền được ở một vị trí “nhạy cảm” như thế, mà cô không phát hiện ra?”
Cô nàng gái ế thút thít: “Ai ngờ được là nó chỉ muốn moi tiền?”

Kết luận: Một nhà kinh doanh tài ba là người moi được tiền của khách hàng trong lúc đang khiến khách hàng sung sướng ngất ngây.

5. Nhân viên vệ sinh của công ty rất buồn phiền vì các quý ông thường lơ đãng khi vào nhà vệ sinh. Để giải quyết những vũng nước vàng khè dưới nền toilette, công ty dán lên tường, phía trên bệ xí nam một tờ giấy: “Không tiểu tới bô chứng tỏ bạn bị ngắn, tiểu ra ngoài bô chứng tỏ bạn bị… ủ rũ!”. Ngay từ ngày hôm sau, toilette nam sạch bóng và không còn quý ông nào lơ đãng nữa.

Kết luận: Hãy chứng minh cho khách hàng thấy vấn đề một cách cụ thể, ấn tượng.

6. Bố mẹ nàng mở cuộc thi tuyển con rể. Chàng A nói, tài khoản có một triệu đô. Chàng B khoe, có biệt thự hai triệu đô. Bố mẹ nàng có vẻ ưng lắm. Chàng C nói, cháu chả có gì cả, thưa các bác. Cháu chỉ có mỗi một đứa con, hiện đang nằm trong bụng của con gái các bác!

Kết luận: Muốn cạnh tranh với đối thủ, cần có tay trong!

Một thời để nhớ

Gõ đại bởi honngv

Xuất thân từ 'chân đất mắt toét', nhờ ơn Đảng, Bác Hồ (ngày ấy) mà mình cũng vinh dự được một thời sánh vai cùng các anh chị và các bạn trên con đường 'tu nghiệp' tại 1 trong những trường Đại học danh giá nhất cả nước, trường Đại học Bách khoa Hà Nội. Giờ nghĩ nó chẳng là gì, nhưng với riêng mình đó là thời kỳ hạnh fúc nhất, yên bình nhất của cuộc đời. Mình cứ muốn sống mãi với cái cảm xúc lâng lâng khi lần đầu tiên bước vào hành lang (nhớ là mới ở hành lang thôi đấy) nhà C1, nghĩ cứ tiếc cho họ hàng, hàng xóm cùng mấy thằng bạn ở quê không được chiêm ngưỡng, không được dạo bước như mình thế này trong 1 cái hành lang rộng lớn nhường ấy! Và tuy chưa trở thành SV chính thức, nhưng cũng đã nảy chút ‘tự hào’!
 
NHẬP TRƯỜNG

Mình tốt nghiệp fổ thông (hệ 10/10) năm 1969. Khi sắp thi tốt nghiệp, theo fong trào cũng làm hồ sơ thi đại học. Chẳng biết hướng nghiệp là gì, tài liệu hướng dẫn đâu có như bây giờ. Mấy thằng ‘thày fán’ chân đất mắt toét cùng lứa bàn bạc, tranh luận việc chọn trường nọ trường kia. Giờ chẳng nhớ lúc đó đăng ký vào trường nào. Chỉ có độc 1 câu lan truyền trong thiên hạ lúc đó: ‘nhất Y nhì Dược, tạm được Bách khoa’, và với tinh thần quật khởi: học để thoát khổ, thoát nghèo.

Động lực là vậy, nhưng thi tốt nghiệp xong là về lại ngày 2 buổi hết gặt lúa đồng xa đồng gần lại đi nhòm đít trâu (đi cày), gánh fân, nhổ cỏ, đêm lại đập đất đập lúa -  ngày ấy còn hợp tác xã - có ngó ngàng đến sách vở gì đâu, đến nỗi quên cả khái niệm học. Một hôm đi cày về, đang mệt rũ rượi, bụng còn đói run, chú Bưu tá đến đưa cho cái giấy gọi nhập trường. Mừng rú. Giở ra xem thấy giấy báo của Bách khoa. Khốn nỗi có biết Đại học bách khoa là cái mẹ gì đâu, và nó ở đâu cũng tắc tịt. Chạy đi hỏi khắp cả làng mới có vài thông tin lờ mờ. Chưa biết đi Hà Nội theo hướng nào từ cái đường 5 lịch sử quê mình!

Thế là khoảng tháng 8/1969, chẳng tiệc tùng, liên hoan liên hiếc gì như bây giờ, vai toòng teng cái ba lô 3 lá thời chống Pháp, do ông chú để dành từ thời lính Điện Biên, gói độc nhất 2 bộ quần áo cũ và mấy chục đồng bạc, mình tạm biệt đứa em gái, theo chân người yêu hụt (sau này), dưới sự dẫn dắt của ông bố cô nàng lên tàu ‘xuất ngoại’, đi Hà Nội.

Xuống ga Hàng Cỏ, bị ngợp luôn. Vì từ bé chỉ nhìn thấy ô tô chạy trên đường 5, tàu hỏa chạy qua ga Phú Thái, (1 ga nằm trên tuyến đường sắt Hà Nội- Hải Phòng), đã biết Hà nội hà ngoại là gì đâu. Bám rít đít ông già và cô bạn, leo tàu điện vào Bách khoa, tất nhiên sau khi húp gọn 1 bát fở và cái bánh mì ở cửa ga, ông già mua cho. Sao ngon thế!
Đến cổng Nam Bộ (nay chắc không còn tên này, sau này mới biết là cổng Parabol) thấy cái cổng cao vòm vòm mà fát sợ, chẳng giám bước qua, nếu kg có sự thúc giục của ông già. Rồi hình như mấy bố con vào hỏi mấy chú bảo vệ (gác cổng) và được chỉ dẫn: mình fải tách khỏi ông già và cô bạn gái cùng quê vì 2 đứa vào 2 khoa khác nhau: mình - Vô tuyến, cô bạn – Kỹ sư kinh tế (thời đó có khoa này, giờ đổi tên và biến tướng thành gì, hơi đâu mà tìm hiểu!). Đành fải tạm biệt ông bố hụt nhiệt tình chất fác nhà nông và cô bạn đáng yêu, hẹn ngày gặp lại. Giờ chẳng còn nhớ nộp giấy tờ và được nhận tạm vào khoa như thế nào nữa, (sau còn kiểm tra kiến thức mới được vào chính thức).

ĐHBK ngày đầu thành lập
Chỉ nhớ thằng bạn đầu tiên giữa ‘thiên đường đại học’ là 1 thằng cũng chẳng hơn gì mình, cùng 1 duộc ‘cua bò đường nhựa’. Có lẽ chính vì thế mà 2 thằng rất thân nhau, đi đâu cũng fải đủ 2 đứa. (Giờ đã là ông nội, ông ngoại cả rồi, nhưng cứ gọi nhau như thế cho nó... trẻ. hihi... ). Phải cái hắn nói giọng cóc chết gì (lúc ấy chưa fân biệt được), cứ mô tê, chi mô răng rứa loạn xì ngậu lên hết cả, làm mình ù tai, nghe chẳng hiểu nó nói gì, cứ fải hỏi đi hỏi lại. Thế cùng thì cũng fải cố mà hiểu chứ còn biết mần ra răng. Sau ít ngày rồi cũng hiểu dần dần. Té ra hắn người Hà Tĩnh (lúc đó sát nhập nên gọi là Nghệ Tĩnh). Hắn là Trần Văn Miên, sau này học lớp Bán dẫn.

Chắc những ngày chờ nhập trường này các bạn ở Hà Nội thì đến trường ghi tên rồi về, không biết các bạn gái ở đâu, còn bọn ‘cua đồng đực’ chúng mình thì ở tập thể trong ngôi nhà lá được dựng bởi toàn tre, luồng (có lẽ được chở về từ Lạng Sơn - cơ sở sơ tán của Khoa VT), tọa lạc trên miếng đất hoang, nằm sát sông Tô Lịch, ngay cạnh cầu B8. (Bây giờ khó mà nhận ra! Ngày ấy còn có có con đường tắt đi từ đây đến Nhà ăn số 3, là 1 lối mòn còn vương nhiều cỏ). Trong nhà 2 bên là 2 dãy ‘giường’ được dựng lên bằng các đoạn gốc luồng chôn chặt xuống nền đất, trên là những cây luồng quây làm thành fản, và đan thành tấm chạy dọc theo chiều dài nhà. Các tân SV tương lai nằm sát nhau, mỗi thằng chiếm diện tích đúng bằng cái chiếu 1.

Tiền ăn mỗi tháng fải đóng 18 đồng, sau này (nhờ ơn Đảng ơn Bác) mình được miễn giảm toàn bộ vì nhà nghèo, ngoài ra còn được cấp thêm mỗi tháng 4 đồng tiêu vặt. (Thời đó cái bánh mì = 250 gam tem lương thực + 1 hào, nếu không có tem thì 4 hào. Sáng mà đớp 1 cái bánh mì này thì học cả ngày chất fải biết. Nói thêm để con cháu có đọc còn biết mà so sánh: năm 1975 ra công tác, lương của kỹ sư tập sự (còn gọi là khởi điểm) của mình là 63 đồng). Ngày 2 bữa trưa, chiều thưởng ngoạn tại nhà ăn số 3. Nhận cơm bằng fiếu ăn (chuyện fiếu ăn kể sau), 4 đến 6 mống 1 mâm. Mỗi mâm bao giờ cũng có 2 xoong (1 cơm, 1 canh hoặc nước luộc rau) và 2 đĩa (1 rau, 1 thức ăn mặn). Mỗi bữa mỗi mạng được 2 vực bát cơm và 1 chiếc bánh mỳ 250 gam, sau này mới xuất hiện khái niệm '2 bát mốt'. Tất nhiên thức ăn thì 'khiêm tốn' đến mức tối thiểu. Sáng tự túc. Mình thường nhịn sáng cho tiện. So với SV bây giờ thì thời đó là 'thiên đường cộng sản'. Tuy chưa đủ no nhưng với mình thì quá tuyệt vời. Vì ở quê còn bị ăn uống ít hơn mà lao động chân tay nặng nhọc gấp trăm lần. Mình đi đâu cũng cặp kè với thằng ‘Miên ẻ’. Mãi chẳng lần ra cô bạn đồng niên, đồng môn, đồng hương (cấp xã) ở nhà nào và cũng chẳng biết ông già về quê từ ngày nào nữa!
 
Các bọ có nhận ra đây là đâu không?
Có lần 2 thằng rủ nhau đi ‘khám fá’ trường để thỏa tính tò mò. Khi lò dò bước trong hành lang tầng 1 nhà C1 mà người cứ lâng lâng, tưởng mình đang mơ. Sao mà to rộng thế, hoành tráng thế. Chỉ riêng 1 góc hành lang này cũng còn to hơn, cao hơn cái Hội trường huyện mình chứ chẳng thèm so với xã. Nghĩ cứ tiếc cho họ hàng, hàng xóm cùng mấy thằng bạn ở quê không được chiêm ngưỡng, không được dạo bước như mình thế này trong 1 cái hành lang rộng lớn nhường ấy! Và tuy chưa trở thành SV chính thức, nhưng cũng đã nảy chút ‘tự hào’! Viết thư về nhà khoe rinh tý mẹt. Mình hỏi cảm tưởng Miên ẻ, hắn nói: choa cũng rứa, à quên tao cũng thế. Quả là ngây thơ hơn cả gái lên 10!

Khuôn viên của trường Đại học Bách khoa Hà Nội khi ấy rất rộng, nó ấm cúng, tuy fa lẫn giữa cũ kỹ và hiện đại, nhưng nó riêng ra là khu trường học chứ không nhộn nhạo, fa trộn fố xá như bây giờ. Trường chia thành 3 khu rõ rệt. Khu A là khu trường cũ, gồm các giảng đường, nổi tiếng là giảng đường 250, nhà Bát giác, thư viện, fòng thí nghiệm, xưởng sản xuất thực nghiệm của các khoa, gắn liền với sân vận động và cổng Bạch Mai. Khu B là khu nhà ở của giáo viên, cán bộ, CNV, SV của trường, (như B5, B8..., khu B này nhiều chuyện hay đến ngất ngây luôn!), gắn liền là cổng Đại Cồ Việt. Trước cửa nhà B8 là 1 khoảng sân đất rộng bởi nơi đây hình thành 1 ngã 3 với lối rẽ vào B6, B7.... Đối diện bên kia sông Tô Lịch đen ngòm là khoảng sân cỏ khá rộng, đá bóng thoải mái với dãy nhà tắm chạy dài suốt dọc đường đi (rất tiện lợi). Khu C là khu trường mới, do Liên Xô tài trợ thiết kế và xây dựng, (tất nhiên công nhân là người Việt), nơi như còn ghi lại rất nhiều kỳ tích bi hài của không gì K14VT. Nó gồm rất nhiều giảng đường to nhỏ, nổi trội là giảng đường C2, 'hội trường dốc C1', nhà C9 nơi khoa Vô tuyến chiếm giữ, các fòng thí nghiệm, thư viện hiện đại, gắn với cổng Parapol hoành tráng, quay ra đường Nam Bộ (tên lúc đó). Ngày ấy có quy định, buổi tối SV không được ra khỏi trường qúa 10h đêm, (mình cho là hay). Điều đó nay nghe như điều ngớ ngẩn. Vì quy định ấy mới fát sinh ra 'Con đường Phạm Đồng Điện' - quý danh Thầy Hiệu trưởng nhà trường lúc đó - chui qua lớp rào thép gai giáp đường Nam Bộ và đoạn trèo tường fía đường Đại Cồ Việt, là những lối cho các anh các chị nào nhỡ la cà yêu đương quên mất cả giờ về. Chẳng may chú nào bị Bảo vệ tóm được cũng bị báo lên khoa, nhắc nhở hoặc thậm chí bị kiểm điểm, fiền hà ra fết. Cái khu đất Bách khoa năm xưa ấy nay đã bị xé lẻ ra thành nhiều trường, (cái này bác Mạnh Quang và Nguyễn Khuyến nắm rõ), mỗi trường 1 khác, thành ra khi SV bước ra khỏi giảng đường là hòa vào guồng chảy fố fường, lối sống chộp gựt, láo nháo, ồn ào chẳng khác mấy chợ Trời.

Ở nhà lá cạnh B8 ấy, chờ mọi người từ khắp nơi về nhập trường, được bao lâu không nhớ thì loa công cộng của trường (loại loa nén của ông anh CCCP - 'các chú cứ phá' - cho, treo ngay trên cây sát nhà B8), loan tin Bác ốm nặng rồi hôm sau tin Bác mất. Cả trường, cả Hà Nội và chắc chắn cả nước như dừng hết cả lại. Tất nhiên việc tựu trường của khóa mình cũng fải dừng lại, đâu ở yên đấy, an ninh được thắt chặt. Nếu mình nhớ không nhầm thì những ngày ấy trời mưa liên miên. Mình với thằng Miên cũng khóc thật sự, (ngày ấy còn vô tư và trong sáng lắm, chưa có chất xám (kỹ thuật) như bây giờ!), bàn nhau nhảy tàu điện lên Ba Đình chui, luồn, chen lấn để làm sao nhìn thấy Bác vì đã thấy Bác bao giờ đâu, chỉ 'gặp' trong sách báo. Nhưng mọi cố gắng của 2 con cua đồng đều thất bại thảm hại, cái thu được là những bữa đi bộ cả ngày, bỏ cơm, đói dài người.

Hôm truy điệu và viếng Bác lần cuối, mình và Miên rủ nhau đi thật sớm. Tàu điện chật cứng, chỉ còn nước đi bộ, len nhau mà đi. Cố lắm cũng chỉ mon men mép ngoài sân quảng trường Ba Đình, sao mà 'thấy' Bác được! Ai cũng như ai, mặt ỉu xìu, buồn rười rượi. Nhiều người khóc thật sự, nhất là khi Bí thư Lê Duẩn đọc Điếu văn. (Nhưng cũng chẳng đến nỗi u mê như đám tang Iêng Ung gì gì ấy bên Bắc Triều vừa rồi đâu). Phải nói thật, trời fú cho ông Duẩn cái giọng đọc điếu. Nói cách khác ông Duẩn rất hợp cho việc đọc điếu văn! Có lẽ trên đời này chưa có ai đọc điếu văn hay như ông. Tất nhiên cộng với lòng tiếc thương vô hạn từ mỗi con người, giọng đọc của ông nó thống thiết làm sao, nghẹn ngào làm sao, xúc động làm sao, như nạo vét trái tim người nghe, làm chảy nước mũi, làm rơi nước mắt những người vốn định ghìm nén trong lòng đến tận cùng nỗi đau thương mất mát.

Rồi cuộc sống vẫn chẳng ngừng trôi, ai lại vào việc nấy. Mình với Miên ẻ ngày chén 2 bữa, đêm ngủ fản tre, chờ bạn bè đến trường cho đầy đủ. Mọi người đến nhập trường đông dần lên, giới thiệu, làm quen ầm ỹ, đủ giọng Bắc Trung Nam, đủ fong cách. Nhưng đối với mình ấn tượng nhất về bạn bè của những ngày tựu trường này - những ngày đầu bỡ ngỡ giữa chốn kinh kỳ - còn nhớ đến tận giờ là chỉ có thằng 'Miên ẻ', vì hắn hay nói tau ẻ vô, ẻ vô.

Hy vọng còn mổ cò tiếp!
(các bọ bổ xung và viết tiếp đi nhé)