Last Updated on Thứ Tư, 08 Tháng Sáu 2011 22:43     
     
     
          
      Chủ nhật, 11 Tháng Năm 2008 16:23     
         
Cuộc nổi dậy kháng Pháp bất thành, kinh đô Huế bị thất thủ ngày 23-5 năm Ất Dậu (1885). Vua Hàm Nghi theo phụ chính đại thần Tôn Thất Thuyết chạy ra Tân Sở và ban chiếu Cần Vương kêu gọi sĩ phu và toàn thể dân chúng nổi dậy chống Pháp.
Ba  năm cầm đầu ngọn cờ của toàn dân tộc đấu tranh 
kháng Pháp, công cuộc  chưa thành thì cuối năm 1888 vua Hàm Nghi bị tên 
tội thần phản chủ Trần  Quang Ngọc bắt nộp cho Pháp. Không thể mua chuộc
 được ông vua trẻ lúc ấy  chỉ mới 18 tuổi, thực dân Pháp đã đưa vua 
xuống tàu La Comète vào Sài  Gòn, rồi đưa qua tàu Biên Hòa, lưu đày biệt
 xứ sang Algeria. Trước đó,  thực dân Pháp đã yêu cầu viên toàn quyền 
Algeria đối xử tử tế với toan  tính có thể đưa Hàm Nghi trở lại ngai 
vàng một lần nữa...
Ngày  13-1-1889, tàu Biên Hòa cập bến thủ đô Alger của 
Algeria. Tại đây, nhà  vua được chính quyền tiếp đón đàng hoàng và được 
nhiều học sinh người  Việt tìm đến viếng chào. Nhà vua được cấp Villa 
des Pins (biệt thự Hiên  Tùng) sang trọng, nằm gần Alger. Ông cũng được 
viên toàn quyền Pháp tại  Algeria là Tirman tiếp kiến và mời cơm thân 
mật tại gia đình.
Không chịu khuất phục
Vua Hàm Nghi tại Algeria
Người dân  Alger thì quen gọi vua Hàm Nghi với cái tên 
thân thiện là “ông hoàng An  Nam” (Prince d'Annam), bởi nhà vua luôn nói
 tiếng Việt, đầu búi tó, đội  khăn vành, vận áo dài đen, quần trắng, ăn 
các món ăn của người Việt do  người Việt nấu... Theo nhà nghiên cứu 
Nguyễn Đắc Xuân: “Về sau khi tiếp  xúc với nhiều người, gặp nhiều người 
Pháp tốt, nhà vua nhận ra không  phải người Pháp nào cũng là kẻ thù và 
ông mới chịu theo học tiếng Pháp  đến mức thông thạo”. Nhà vua cũng 
thường vẽ tranh, chụp ảnh như là những  thú vui tao nhã trong đời sống 
của mình.
Khi đã  tiếp cận, học hỏi nhiều điều từ văn hóa, văn 
minh Pháp, có người ca ngợi  lịch sử nước Pháp trước mặt ông, nhà vua 
không bàn cãi mà chỉ đáp lời:  “Lịch sử nước Pháp rất hấp dẫn tôi nhưng 
lịch sử nước tôi cũng hấp dẫn  tôi không kém!”...
Nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân  kết luận: “Vua Hàm Nghi
 giao du quen thuộc với nhiều trí thức nói tiếng  Pháp; nhiều quan chức 
cao cấp của Pháp rất trọng nể tinh thần yêu nước  và phong cách sống 
phương Đông của ông”. Ông Tôn Thất Hanh, nguyên chủ  tịch hội đồng 
Nguyễn Phước tộc, nói: “Vua Hàm Nghi là biểu tượng của sự  chống đối đối
 với thực dân Pháp từ trẻ đến già, với cái tâm thật trong  sáng!”.
Tác giả Bửu Diên - Hoàng Oanh, trong đặc  san tưởng 
niệm Ba vị hoàng đế cách mạng Hàm Nghi - Thành Thái - Duy Tân  do hội 
đồng hoàng tộc Nguyễn Phước hải ngoại ấn hành năm 2004, nhận xét:  “Cuộc
 đời sóng gió, lòng yêu nước và đức độ của vua Hàm Nghi đã cảm hóa  được
 nhiều người bạn ngoại quốc”, thông qua nhắc lại tường thuật của cô  
Blanche - con gái vị đại tá tư lệnh Alger thời bấy giờ đã viết về vua  
Hàm Nghi: “Nếu Người bằng lòng trở lại ngôi báu thì người Pháp chúng tôi
  rất vui mừng vì Người đã được dân chúng và sĩ phu sùng bái. Lòng yêu 
tổ  quốc, yêu quê hương, yêu đồng bào của Người lớn hơn cả chiếc ngai 
vàng.  Tôi yêu mến tổ quốc của tôi nên tôi rất quí trọng những người yêu
 tổ  quốc của họ!”.
Một gia đình Việt giữa xứ người
Theo  nghiên cứu của ông Nguyễn Đắc Xuân, vào đầu thế 
kỷ 20, thông qua một  người Pháp, vua Hàm Nghi viết thư về Huế yêu cầu 
gửi hai người cháu là  Bửu Thùy và Bửu Phong, con của công tử Ưng Uyển, 
anh cùng cha khác mẹ  với mình, sang Alger ở cùng.
Vợ ông Ưng Uyển, là  con gái của đại thần Nguyễn Hữu 
Độ, không đồng ý. Đến năm 1904, khi đã  33 tuổi, vua cưới vợ là cô 
Marcelle Laloe, con gái ngài luật sư chánh án  tòa thượng thẩm Alger. 
Ngài Laloe góa vợ, có một con gái duy nhất, là  người rất được trọng 
vọng đối với dân bản xứ, có lẽ thông cảm với hoàn  cảnh của vị vua nước 
Nam đang lưu vong nên đã gả con gái cho.
Ngày  cưới, vua Hàm Nghi vẫn phục sức kiểu Việt với áo 
dài, khăn đóng, búi  tóc cổ truyền, đi trên chiếc xe song mã rước vị hôn
 thê đến nhà thờ làm  lễ. Những bức ảnh tư liệu cho thấy hàng nghìn 
người đã theo dõi lễ cưới  của vị vua An Nam, và đây trở thành một sự 
kiện văn hóa của người dân  trong vùng. Vợ theo Thiên Chúa giáo, vua Hàm
 Nghi tuy không theo đạo  nhưng rất tôn trọng vợ, thỉnh thoảng có đến 
nhà thờ, và hai người sống  với nhau rất hạnh phúc cho đến cuối đời. Nhà
 vua có ba người con, con  đầu lòng là hoàng nữ Như Mai sinh năm 1905, 
năm 1908 có thêm cô con gái  kế là Như Lý và đến năm 1910 sinh con trai 
út Minh Đức.
Ý  thức về sự đày ải suốt cuộc đời, biệt thự Hiên Tùng 
được vua đổi tên  thành biệt thự Gia Long, trong đó xây một cổ lâu theo 
kiểu kiến trúc  Việt truyền thống, biến thành nơi để thờ phụng, tế tự 
dòng tộc nhà  Nguyễn. Ông thường bảo: “Các con chưa thể được làm người 
dân Việt Nam  tốt thì hãy là những người Pháp tốt”.
Cách sống và  cách dạy con dựa trên tinh thần Việt của 
nhà vua đã tác động tích cực  nên các con ông đều trở thành người rất có
 tư cách. Con gái đầu Như Mai  năm 1925 đã đỗ đầu kỹ sư nông học tại 
Trường canh nông Quốc gia Grignon,  là người phụ nữ đầu tiên đỗ đầu 
trường này.
Bà  không lập gia đình mà đem tri thức giúp dân nghèo 
cải tạo nông nghiệp  tỉnh Dordogne, biến vùng đất nghèo trở nên giàu có.
 “Bà chúa nước Nam”  theo cách gọi của dân địa phương đã dựng được một 
lâu đài lớn tại làng  Thonac, về sau biến một phần đất trở thành nghĩa 
trang gia đình, nơi đặt  di hài vua Hàm Nghi hiện nay.
Người con gái kế Như  Lý đang học đại học ngành dược đã
 bỏ học đi lấy chồng là một nhà quí  tộc thành công trong nghề nông, 
sinh được ba người con, hiện đang sinh  sống tại Pháp. Phần hoàng thân 
Minh Đức, cũng như bao nhiêu thanh niên  Pháp, phải đi lính trong Thế 
chiến thứ 2. Theo tác giả Nguyễn Xuân Thọ,  sau thế chiến hoàng thân ở 
trong quân đội Pháp với cấp thiếu tá.
Sau  khi Đức thua trận, ông được lệnh đưa đi Việt Nam 
trong hàng ngũ quân  Pháp, nhưng ông thẳng thừng từ chối. Ông Jean De 
Latour Dejean - một đại  sứ làm việc cho Bộ Ngoại giao Pháp, từng là sĩ 
quan, bạn thân và là  đồng đội với ông Minh Đức lúc ấy - kể câu chuyện 
hoàng thân tuyên bố với  Chính phủ Pháp rằng ông không thể cầm súng bắn 
lại đồng bào ông. Nếu  Chính phủ Pháp muốn đưa ông ra tòa án binh thì cứ
 đưa. Ông không chịu đi  qua Việt Nam để đánh giặc cho Pháp, chống lại 
Việt Nam.
Đã gần ngày về với quê nhà
Nhiều  sử liệu cho rằng vua Hàm Nghi mất vào ngày 
4-1-1943; tuy nhiên ông  Nguyễn Đắc Xuân dẫn theo lời bà Như Lý cho rằng
 vua mất vào ngày  14-1-1944, tại biệt thự Gia Long và an táng ngay tại 
đây. Đến năm 1962,  khi Algeria độc lập thì biệt thự Gia Long được trả 
về cho Algeria và ba  năm sau di hài nhà vua được chuyển về cải táng ở 
khu lăng mộ tại làng  Thonac, trong khu vực lâu đài của trưởng nữ Như 
Mai ở tỉnh Dordogne.
Ông  Xuân cho biết khu lăng mộ hiện có năm hài cốt gồm:
 vua Hàm Nghi, bà  Marcelle Laloe - vợ vua (mất năm 1974), bà quản gia 
(mất 1941), ông Minh  Đức (mất 1990) và bà Như Mai (mất 2000). Theo ông 
Xuân, nếu đưa về Huế  nên thiết kế một khu lăng mộ riêng cho phong trào 
Cần Vương và cải táng  vua Hàm Nghi và gia đình, cùng việc bố trí các 
chí sĩ trong phong trào  Cần Vương như: Tôn Thất Thuyết, Tôn Thất Thiệp,
 Tôn Thất Đạm... để vừa  trở thành điểm tưởng niệm, tham quan học hỏi...
Đến  nay tỉnh Thừa Thiên - Huế đã bước đầu thống nhất 
phương án chọn địa điểm  đặt nơi yên nghỉ vĩnh hằng cho vua Hàm Nghi tại
 vùng đồi Thủy Xuân - TP  Huế. Đó là một khu đất nằm kề các khu lăng 
những người thân của vua gồm  lăng người cha Kiên Thái vương và hai vua 
anh là Đồng Khánh và Kiến  Phúc (nằm trong khu vực lăng Tự Đức)...
THÁI LỘC - báo TTCT
 
Xin lỗi HT, đây cũng là 1 tầm nhìn. Nhưng có lẽ cậu chưa hiểu được ý nghĩa của 'Giải thưởng Phan Châu Trinh'(?!). Tại sao đến giờ (đã qua 100 năm), các nhà Tri Thức yêu nước thực thụ vẫn còn lập ra Giải thưởng ấy? Xin hãy đọc bài: Khai sáng dân trí - lối thoát cho phong trào dân c... trong blog này và đọc thêm nhé. Hãy tỉnh lại dù chẳng để làm gì!!!
Trả lờiXóa