honngv: Nhân ngày 27/7
và Chào mừng Hội CCB Thành Cổ vừa thành lập (tin trên VTV), nhớ tới Nguyễn Toàn Thắng, Trần Quang Ngân, Trần Thành Đô và bao đồng môn khác đã có những năm tháng khói lửa, sống chung với Tử thần như bài báo này:
Đầu
tháng 12 năm 71 hai tiểu đoàn sinh viên 5, 6 chia nhỏ bổ sung về các quân binh
chủng. Còn lại một số anh em chưa vể đâu phấp phỏng chờ đợi, đoán già, đoán non
đơn vị mình sẽ được điều về. Trong cuốn nhật ký Mãi mãi tuổi hai mươi của Thạc
ngày 6-12 có ghi lại thời điểm đó. Hắn chê tôi sợ vào hỏa lực trợ chiến phải
mang vác nặng gù lưng. Hắn chê tôi sợ chết muốn vào binh chủng tăng thiết giáp
vì có vỏ thép dày che chở. Ôi, sợ chết âu cũng là lẽ thường tình của những
thằng lính trẻ, 18 đôi mươi chúng tôi, chửa biết cái chi chi, chết thì tiếc
lắm.
Song,
cả tôi và hắn đều nhầm. Sau này, tôi nhận ra có thứ còn đáng sợ hơn cái chết.
Đó là sự đầy đoạ về thân xác.
Người
ta thường nói, "ghét của nào trời trao của ấy". Cuối cùng tôi lại
được điều về tiểu đội 12 ly 7, đại đội 12 trợ chiến thuộc trung đoàn 101 sư
đòan bộ binh 325. Một tiểu đội 12,7 ly biên chế từ 10 đến 12 người. Trừ A
trưởng mang kính ngắm và một khẩu AK, còn lại chia thành 3 tổ có nhiệm vụ mang
ba phần chính của súng. Tổ 1 mang thân súng nặng 33 kg và một thùng đạn khoảng
10 kg. Tổ 2 mang chân súng nặng 34 kg và một thùng đạn. Tổ 3 mang bệ súng nặng
khoảng 21 kg một hộp tiếp đạn và một thùng đạn cũng nặng chừng ấy. Khi hành
quân, thân và chân súng được hai cặp khiêng bằng hai chiếc đòn tre dài nặng
chình trịch. Bệ súng hình thù kỳ dị đầy góc cạnh được một người vác. Những cạnh
sắc như băm từng thớ thịt. Hơn ba chục cân có vẻ không quá nặng. Nhưng xin
thưa, hành quân cả ngày trời dưới cái nắng miền trung, cộng với tư trang khoảng
30 cân nữa thì lừa cũng phải chào thua. Khi khiêng súng, người đi sau còn đỡ
chứ người đằng trước thật khốn khổ. Sức nặng của balo và súng phía sau cứ kéo
ngửa người ra. Trèo đèo lội suối, rồi trong rừng rậm, súng móc bên này mắc bên
kia tiến cũng chẳng được mà lùi cũng không xong. Hồi còn đi học, ngoài cái tên
bố mẹ đặt cho, tôi còn mang thêm biệt danh các bạn tặng là “còm”, vì cân nặng
cả bì chỉ có hơn 40 kg. Khiêng súng bị phồng, rồi loét, hai vai, mãi không
lành. Mỗi lần hành quân mang vác, đối với tôi không khác gì hành xác.
Đêm
ấy, bên cánh rừng ở Cự Nẫm Quảng Bình, nhận quân trang đi B balo hơn 40 cân,
tôi phải đẩy lên ngôi mộ hoang, luồn hai vai vào hai quai mới gượng đứng lên
được. Vậy mà lại đến phiên khiêng súng. Cố gắng bước dược chừng 50 chục mét thì
ngã chúi xuống, nửa quì nửa ngồi, tôi ôm mặt khóc. Y tá Cận chạy lại, mở túi
thuốc lấy ra một vốc vitamin B1 bảo tôi uống. Nghi ngờ về khả năng tăng lực của
nắm B1 ấy, song tôi cũng tống đại vào mồn nhai trệu trạo. Thực tình lúc ấy tôi
chỉ muốn chết quách đi cho rồi. Họặc giả có một quả pháo biển lạc vào giải
thoát cho tôi thì âu cũng là số phận.
May
thay trong tổ tôi còn có Khánh "voi". Trong số các anh em quê Phủ Cừ,
Hải Hưng, Khánh "voi" nổi bật vì dáng cao to như cây chuối hột trong
vườn toàn chuối tiêu. Nghe nói nhà hắn nghèo lắm, ăn uống kham khổ, vậy mà hắn
lại có một thân hình khá lý tưởng. Cao trên một mét bẩy lăm. Bắp thịt săn chắc.
Đôi vai gấu hơi xuôi, hai hàm răng trắng đều, nước da sáng hơn că lũ bạch diện
thư sinh chúng tôi. Hắn ghé vai đỡ tôi dậy, rút chiếc đòn khiêng ra quẳng sang
một bên, đặt thân súng nặng như cùm lên vai lầm lũi bước tiếp. Tôi vớ lấy chiếc
đòn khiêng cố bám theo. Cuộc hành quân 5 ngày không thể nào quên, từ tây Quảng
Bình theo dãy Trường Sơn qua giới tuyến 17 vào Quảng Trị tham chiến. Lính rơi
rớt dọc đường. Không còn ra đội hình gì nữa, các đơn vị trộn lẫn vào nhau. Tiểu
đội tôi đến nơi tập kết đầy đủ, có lẽ nhờ một phần bởi Khánh "voi".
Sau
trận đầu, đêm 23 ngày 24 tháng tám năm 72, tiểu đội bị thiệt hại nặng nề,
thương vong non một nửa, tạm bị trưng dụng làm lính vận tải. Làm gì cũng được,
miễn là không phải khiêng súng. Nhưng tôi lại nhầm. Gọi là vận tải cho oai chứ
thực ra là gùi gạo, đạn. Mấy chục cân trên vai chẳng khác gì khiêng 12ly7. Trên
một cung đường chừng 4, 5 cây số trống trải, phải luôn vận động thật nhanh qua
những tọa độ chết người của pháo bầy và máy bay cường kích. Vô phúc dính B52
thì coi như chấm hết. Vậy mà với Khánh "voi" dường như chẳng hề hấn
gì. Bao giờ hắn cũng về trước tôi cả tiếng đồng hồ, chui tọt vào hầm không ra
ngoài. "Trên mặt đất không có lợi", hắn bảo tôi thế. Biết vậy mà đành
vậy. "Trên mặt đất không có lợi"...
Một
tuần sau, tiểu đội lại nhận khẩu súng khác, chế tạo tại Liên Xô, nòng xoắn, tản
nhiệt tốt hơn, nhưng cũng nặng hơn khẩu trước khoảng chục ký. Ngay đêm ấy lại
vào chốt. Tâm trạng mọi người khá nặng nề. Nõi ám ảnh trận trước không thể bỗng
chốc mà quên ngay được. Tiểu đội chốt trong một vườn chuối nhỏ lá xác xơ. Giũa
vườn hiện lờ mờ một ngôi nhà, thực ra là phế tích của một ngôi nhà tan hoang.
Phía trước là một bụi tre rách bươm. Nghe đâu trước bụi tre là lính đại đội 9
bộ binh. Chúng tôi vội vàng đào hầm trú ẩn, công sự pháo và một đoạn hào chừng
4 mét nối hầm trú ẩn với hầm pháo. Gần sáng công việc cũng tạm xong. Trong khung
cảnh chết chóc như vậy, mà vẫn thấy một tiếng gà lạc lõng, cô đơn, gáy yếu ớt
báo hiệu một ngày mới băt đầu. A trưởng Thành phân công người đứng cảnh giới
dưới hào cách hầm trú ẩn khoảng một mét, còn lại tạm nghỉ. Rồi cũng đến phiên
tôi đứng gác Trận địa hai bên thật yên tĩnh. Tôi nghe rõ cả tiếng con chim sâu
bay chúi vào bụi cây trước mặt. Thì ra nó bị mù từ bao giờ. Chừng một tiếng
sau, Khánh "Voi" đổi gác. Đôi vai gấu của nó cố nghiêng, lách ngườì
cho vừa đoạn hào vừa hẹp vừa nông. Tôi chui vào hầm, chợp mắt một lúc. Bỗng một
tiếng nổ vang phía cửa hầm. Minh "già" kêu thất thanh: 'Khánh chết
rồi". Giật mình nhìn ra, một cảnh tượng thật hãi hùng. Khánh
"voi" đang từ từ ngồi xuống, lưng tựa vách hào, đôi tay buông xuôi.
Cái đầu nó bay đâu mất. Phía trên cổ, giữa một mớ xương vụn, máu ồng ộc tuôn ra
ngập một đoạn hào. Trên vai Khánh, một mảng da đầu còn nguyên tóc vắt ngang,
như khoác một chiếc khăn nửa đen nửa đỏ.
Cả
tiểu đội chết lặng. Mặt Minh "già" thường ngày vốn đen thế, mà lúc đó
trắng bệch, đôi mắt thất thần. Sau ít phút trấn tĩnh, tôi quyết định ra ngòai.
Để tránh vũng máu, tôi nắm hai cổ chân Khánh, làm động tác như đu xà kép dướn
người nhoài ra. Bên mép hào, một hố vát hình nón vừa bị khoét còn vương vài
mảnh gang vụn. Cối 81, Khánh chết vì một quả đạn cối của địch bắn vu vơ. Phía
đối diện, một tấm gỗ ép dựng bên gốc chuối bê bết máu và óc. Giá mà Khánh thấp
hơn một chút, giá mà Khánh đổi gác chậm hơn một chút thì cái thằng đang ngồi
kia chính là tôi.
Mãi
đến khuya mới có hai lính vận tải tiểu đoàn đến mang Khánh đi. Trăng thượng
tuần tháng cô hồn trút ánh sáng vàng vọt xuống vườn chuối. Trên ngực Khánh, nắp
chiếc bút máy Pilot mạ vàng, mới nhặt được hôm qua, “để viết thư”, hắn nói thế,
cứ lấp lánh thứ ánh sáng ma quái.
Nhiều
năm sau, ánh sáng ma quái ấy cứ ám ảnh tôi trong những đêm mất ngủ vì bệnh tật.
Hình ảnh Khánh "voi" với đôi vai gấu lại chập chờn hiện về. Giá mà
hắn thấp hơn một chút, giá mà hắn đổi gác chậm một chút. "Ở trên mặt đất
không có lợi". Biết vậy mà đành vậy.
***
Đúng
là “chim sa cá nhảy” đen quá, tại con chim mù sa vào bụi cây hay sao mà tiểu
đội ra quân lần thứ hai, ngay ngày đầu đã mất luôn “cây chuối hột” Khánh ”Voi“.
Để giải đen, anh Thành quyết định rời trận địa sang trái, cách trận địa cũ
chừng 50 mét. Lợi dụng hai hầm trú ẩn của đơn vị nào bỏ lại, chúng tôi hối hả
đào công sự. Lần này, không ai bảo ai, đào rõ sâu. Đến tầm trưa, một tốp f4 bay
đến. Chúng lượn một vòng rồi chiếc đầu bổ nhào. Tiếng bom rít thật khủng khiếp.
Tôi chỉ mới quen với tiếng đạn pháo và xác định điểm rơi khá chuẩn xác, nhưng
với bom, đây là lần đầu. Cộng hưởng với tiếng gầm rú của động cơ, như khoan vào
óc, ruột gan như thắt lại. Hai quả bom trùi trũi lao xuống, ½ thân rồi ¼ thân.
Hai tiếng nổ đinh tai dường như cùng một lúc, cách công sự chừng vài chục mét,
đất đá rơi rào rào. Chiếc thứ hai vòng lại chúc đầu, anh Thành vội kéo tôi vào
hầm pháo. Một quả bom, từ dưới bụng máy bay bung ra. Lần này hình chiếu của nó
như quả bưởi, to dần từng tíc tắc. Chân tôi díu lại, như muốn chạy mà không
được. Tôi nghe thấy văng vẳng một tiếng hô “ …bổ nhào ..bắn”. Binh tĩnh lại,
đưa máy bay vào kính ngắm số không, tôi xiết một tràng dài. Một ánh chớp loé
lên bên trái trận địa, kèm theo một tiếng nổ lộng óc, xô tôi dúi vào vách công
sự. Chiếc máy bay chẳng hề hấn gì, bay lên, mất hút vào bầu trời. Vậy mà, anh
Thành vẫn khẳng định, nó đã dính đạn, bằng chứng là không dám quay trở lại. Tôi
cho rằng, nó đã hết bom, chẳng qua anh muốn động viên tôi mà thôi. Hứng chí
hơn, anh tuyên bố, từ nay tôi sẽ là tiểu đội trưởng, còn anh là trung đội
trưởng tự phong, thay anh Châu đã hy sinh.
Làm
A trưởng cũng hay, đỡ phải khiêng súng, nhưng cả tiểu đội còn có 5 mống không
ghé vai cùng anh em thì ai mang, tôi chợt buồn. Nhưng nõi buồn của tôi cũng sớm
được giải toả. Mấy đêm sau, liên lạc đại đội dẫn đén ba lính mới bổ sung. Một,
Tên là Thắng nhà ở Hà Nội, một, tên Chính, Thái Bình còn lại là Định, Quảng
Ninh. Trời tối đen như mực, dưới ánh sáng nhập nhoạng của hoả châu, tôi chỉ kip
thấy lờ mờ ba khuôn mặt. Sáng hôm sau, Chính biến mất để lại khẩu AK. Thắng
người chắc, đậm, hứa hẹn một thợ khiêng súng tốt. Nhà hắn ở ngõ Thanh Miến, con
ngõ nhỏ cong như một dấu ngoặc đơn, nối phố Nguyễn Thái học với Văn Miếu. Thằng
Định, chân tay quyềnh quàng, da ngăm đen, dáng dấp khoẻ mạnh. Tự dưng tôi thấy
rất buồn cười, ngắm hai thằng lính mới, mà như mộ phu đi Tân thế giới không
bằng. Thằng Định, quê hắn ở tít mãi biên giới Việt Trung. Làng hắn có đến 80%
là người Hoa. Có lẽ tiếp xúc với người Hoa nhiều nên giọng hắn cũng lơ lớ như
mấy ông Tầu bán lạc rang phố Hàng Giày. Hầm chữ A, ba thằng nằm trở đầu đuôi
chật cứng, chân tay thằng Định như thừa thãi. Thỉnh thoảng hắn lại rên lên:
“xịt ra một chút nào” thật buồn cười. Vì thế tôi gọi hắn là Định “xịt”. Định
“xịt” có một thói quen khá lạ lùng. Thỉnh thoảng hắn móc trong balo, một chếc
gương honda gấy ra soi, ngày không dưói chục bận rất ngứa mắt. Tôi bảo hắn:
”Vứt mẹ nó đi, mày định gọi máy bay đến à “. Hắn lẳng lặng cất gương đi, nhưng
chỉ được vài ngày, đâu lại vào đấy. Một lần trực chiến, hắn ngắm khẩu 12,7 ly
rất kỹ và rụt dè nói: ”lúc nào có dịp anh cho em bắn nhé” “Bắn máy bay thì phải
học còn bắn bộ binh thì dễ thôi, như bắn AK vậy” tôi bảo hắn, đai khái thế.
Chúng
tôi lại chuyển chốt ra sát bờ sông Thạch Hãn, giá súng bắn bộ binh. Nghe trinh
sát nói, cứ ngược theo bờ sông là Thành Cổ, nơi có tiếng súng vọng về không
ngớt, suốt đêm ngày. Mặt trận phía đông chúng tôi, không có gì lạ, ngoại trừ
vài trận đấu súng lẻ tẻ. Có lẽ do thời tiết. Những cơn mưa đầu mùa trút xuống
liên miên. Nước từ thượng nguồn đổ về đục như máu. Mà có khi lẫn máu thật. Đêm
đêm, tôi nghe thấy tiếng lạch xạch của xuồng máy chở thương binh từ Thành Cổ
xuôi ra, nhiều chiếc dính phải bom từ trường, không đến được trạm phẫu tiền
phương. Vào một chiều tạnh ráo hiếm hoi, phía trước pháo sáng bắn lên rực trời,
chẳng hiểu chuyện gì. Hôm sau mới biết, Thành Cổ đã bị mất. Từ đấy thấy vắng
dần tiếng xuồng lạch xạch xuôi dòng.
Nằm
trong hầm, nghe mưa rơi mà buồn thấu ruột. May có thằng Định “xịt” hay chuyện.
Hắn kể chuyện làng, chuỵện xóm, chuyện nhà, chuyện cửa với những phong tục khá
lạ kỳ. Nhưng kể mãi cũng hết chuyện, đôi khi thấy hắn thừ người ra, lại móc
gương soi. Có lẽ cu cậu nhớ nhà. Một bận tôi nảy ra một ý nghĩ tinh quái, hỏi
hắn:
-
Này, năm nay mày bao nhiêu tuổi rồi? Hỏi thực, đã bao giờ mày thấy cái ấy của
phụ nữ chưa? Đừng ngượng cứ kể đại ra đi.
Hắn
đỏ mặt, thẫn thờ một lúc rồi nói:
-
Nhưng anh cũng phải kể chuyện của anh cho em nghe.
Tôi
cứ ừ bừa vì hy vọng sẽ được nghe một câu chuyện thật nhảm nhí.
-
Em, tháng tới là vừa tròn mười chín tuổi. Đã một lần được thấy cái ấy…
Hắn
kể:
“…
Hồi còn ở quê, em có thằng bạn thân hàng xóm, nó có một cô em gái rất xinh.
Cũng vào cữ này năm ngoái, tháng ngâu, mưa cả ngày, chẳng đi đâu được. Em sang
nhà nó chơi. Hai thằng nằm trong buồng tán chuyện tào lao, ngủ quên lúc nào
không hay. Bỗng em nghe thấy một tiếng động mạnh ngoài cưả, giật mình, tỉnh
dậy. Thằng bạn đi đằng nào mất, hoá ra cô em nó đi chợ về, quần áo ướt sũng.
Ngỡ nhà không có ai, cô ấy ra bể nước dội ào mấy gáo, rồi vào buồng cởi tung
quần áo lau người. Em nằm im như chết, nín thở mà tim cứ đập thình thịch. Lần
đầu tiên em được thấy một thân hình trắng như thế. Hai bầu ngực căng tròn. Em
liếc xuống phía dưới, thú thực, chỉ thấy như một nắm thuốc lào. Cô ấy lại đầu
giường lấy quần áo, bất ngờ phát hiện ra em, kêu thất thanh, ôm vội đống quần
áo chạy bổ ra ngoài. Em ngượng quá, lồm cồm bò ra khỏi giường lủi một mạch về
nhà. Kể từ đấy mỗi bận gặp em là cô ấy lại đỏ mặt chạy vụt đi. Nhiều lần em
muốn gặp xin lỗi mà không được, cô ấy cứ tránh mặt… Rồi cũng đến cái ngày em đi
bộ đội. Cô ấy không tránh nữa, cùng thằng anh trai đi tiễn em. Lúc lên ô tô,
bất ngờ cô ấy níu lấy balo của em khóc tức tưởi. Thằng bạn ngạc nhiên nhìn hai
đứa. Em hết sức bối rối. Cô ấy dúi vào tay em một gói nhỏ. Lên xe mở ra là một
chiếc khăn tay …”
Tôi
thán phục nói:
-
Truyện tình của mày hay thật đấy.
Hắn
trả lời:
-
Nhưng chúng em đã nói được gì với nhau đâu.
-
Cần quái gì phải nói. Nó yêu mày rồi
Tôi
nói tiếp.
-
Hồi vào trong này, em viết liền mấy lá thư về mà chẳng thấy cô ấy trả lời.
-
Mày cứ chuyển đơn vị xoành xoạch thì làm sao mà nhận được.
Tôi
an ủi hắn.
-
Thế còn chuyện của anh.
Hắn
hỏi.
-
Chuyện của tao chẳng có gì. Hồi ở đầu Kênh, tao có chôn cất một gia đình bị
trúng bom. Chị chủ nhà áo thì còn, mà quần bay đâu mất. Tao cứ thấy ghê ghê.
Căn cước của chị ghi tên Huệ. Có đôi hoa tai tao chôn cả. - Tôi kể.
-
Chuyện anh kinh bỏ mẹ, toàn chết chóc. - Hắn nói thế.
Đầu
tháng 11 chúng tôi được lệnh bàn giao chốt cho đơn vị khác. Một đêm mưa bão,
tiểu đoàn vượt sông cửa Việt sang bờ bắc. Sông rộng thật. Bơi giỏi như tôi mà
hàng tiếng mới dìu được súng sang tới bờ. Thỉnh thoảng một quả trái phá rít qua
đầu. Pháo sáng chập chờn như ma đùa trên bầu trời.
Sau
mấy tuần nghỉ ngơi, bổ sung quân, chúng tôi lại được lệnh vượt sông sang bờ nam
tham chiến. Gói ghém súng đạn quân trang cho tiểu đội xong, chuẩn bị xuống nước
thì bất ngờ chính trị viên đại đội gọi tôi lên. Anh bảo, bàn giao tiểu đội cho
A phó, còn tôi nhận nhiệm vụ mới. Chuyện quái gì thế nhỉ? Nghĩ mãi không ra.
Hoá ra, tôi được đi an dưỡng ở tuyến sau nửa tháng.
Làng
an dưỡng cách Quán Ngang, chừng 3 km. Ngày ngày, từng tốp B52 ném bom miền Bắc
trở về. Không biết ngoài ấy ra sao, lại thấy nhớ nhà cồn cào. Tôi có làm quen
với mấy lính sinh viên trường Xây Dựng. Trong đó có Dũng C3, nhà ở phố Hàng
Bạc. Cùng tâm trạng, hai đứa sớm thân nhau. Một sớm, gặp Bảo tiểu đội cối 82 đi
lấy gạo. Trông thấy tôi, hắn gọi thất thanh: “Anh Thìn ơi, tiểu đội anh hy sinh
gần hết rồi”. Tôi choáng váng. “Thế còn ai”. Tôi hỏi? Hắn nói, không được rõ vì
ở tuyền khác.
Ruột
gan như lửa đốt. Rồi cũng đến ngày trở về. Liên lạc tiểu đoàn dẫn tôi ra chốt.
Chỉ một dải cát dài bên trái thấp thoáng bóng phi lao, “kia là Tám Cát “ hắn
nói. Đến một đoạn hào bị pháo cày nham nhở, tôi thấy bệ của khẩu 12,7 ly quen
thuộc bị vặn quăn hình số tám. Đón tôi ở cửa hầm là Bình “Méo” bàn chân băng
trắng xoá và Hùng ngơ ngơ điếc vì tiếng nổ. Chúng kể lại . “Trận Tám Cát diễn
ra thật ác liệt. Pháo địch bắn suốt đêm, sáng ra bộ binh bám theo xe tăng ủi
liền mấy chốt của ta. Bên này khẩu 12,7 ly phát huy tầm xa, bắn chéo vào đội
hình của địch. Chúng chết khá nhiều. Chiếc xe tăng quay nòng pháo lại, bắn liền
hai phát. Phát đầu trúng cửa hầm, anh Tẹo toang bụng. Phát thứ hai hất tung
khẩu 12,7, Định đang bắn sang một bên. Thằng Định bị …” “Tao hiểu rồi” tôi
khoát tay ra hiệu, đừng kể nữa.
Một
cơn gió từ biển thốc vào khiến tôi thấy lành lạnh sống lưng. Lần trứơc là Khánh
“Voi”, lần này là Định “Xịt”. “Chúng mày chết cho tao sống Định ơi. Bắn bộ binh
không dễ đâu… khó nhất là cơ động. Không đại khái được. Tao đã nói dối mày… Nếu
không đi nghỉ hai tuần thì xạ thủ số một chính là tao”.
Nhớ
lại truyện tình đẹp như truyền thuyết nó kể cho tôi bên bờ Thạch Hãn lại thấy
quặn lòng. Ước gì, những lá thư tỏ tình của mày không tới được nàng “Tiên Dung”
miền sơn cước, Định ơi.
Em
vừa tròn mười chín. Đã một lần nhìn thấy … Báu vật của cuộc đời.
***
“Truyện
của anh kinh bỏ mẹ, toàn chết chóc..” Thằng Định bảo tôi thế. Đáng ra tôi, còn
kể tiếp anh Tẹo, hy sinh ra sao hay thằng Ngọ chết cháy trước cửa ngõ Phan Rang
năm 75 thế nào, nhưng thôi tôi kể chuyện sống vậy. Một mầm sống hẳn hoi .
Hồi
ấy tiểu đội tôi được bổ sung một lính mới, quê Thái Bình, tên Toản. Anh khá đẹp
trai, tóc lúc nào cũng chải ngược ra sau, nom rất điệu. Khi anh cười, hai mắt
tít lại, miệng ngoác tận mang tai, phô hai hàm răng... không được trắng. Nó
vàng, xỉn, lại không đều, trông như đứa trẻ lên năm bị sún vậy. Vì thế, tôi gọi
anh là Toản “Sún”. Anh Toản đã có vợ con đàng hoàng, anh hơn chúng tôi chừng
vài tuổi. ( Có lần nghe thằng Mộc kể lại, anh hận tôi lắm, vì ngần này tuổi rồi
mà vẫn bị tôi gán cho cái tên là “Sún”) Thực tình, tôi rất ân hận muốn sửa sai,
mà không được. Là bởi, cái tên ấy quá quen thuộc với tiểu đội mất rồi, như mũi
tên đã buông khỏi dây cung, làm sao giữ lại được nữa. Anh Toản cũng hay chuyện.
Lúc hứng chí anh kể chuyện vợ chồng cho lũ trai tơ. Chúng tôi cứ há hốc mồm ra
nghe. “… Chúng mày biết không? Con vợ tao, cái khoản ấy nó máu lắm. Cái lần
tiễn tao đi bộ đội, chỗ khuất người, nó túm lấy cái ấy của tao bảo, giá anh để
lại cho em cái này thì tốt quá. Tao nóng bừng cả người. Mãi đến khi xe sắp chạy
mới hạ hoả”.
Mà
anh Toản máu cũng không kém. Có bận ra cửa hàng mua bán, sờ tấm vải lụa đen,
nhớ đến vợ, mặt anh lại đần thối ra, đứng chết trân hàng nửa tiếng đồng hồ. Tôi
bực quá, thây kệ anh bỏ về. Chả trách hồi năm 73 sau Hiệp Định Pari, đóng chốt
giáp ranh, một lần bên kia hàng rào, một thằng lính Sài Gòn chửi :" Đ mẹ
Việt cộng thèm l … chết nửa đại đội ". Số là, bên địch hôm ấy, thấy thấp
thoáng bóng áo dài xanh, đỏ, lính mình tò mò ngó xem.
Lại
nói hồi đóng chốt giáp ranh ven biển. Có một lần bão to, tấm tôn lợp trên mái
lán không chịu nổi sức gió bay vèo, chém một nhát ngang mặt anh Toản. Chúng tôi
vội vàng khiêng anh đi cấp cứu phẫu trung đoàn. Nửa tháng sau anh về, một con
rết dài cỡ gang tay vắt ngang mặt, nom rất gớm ghiếc. Có lẽ Chí Phèo cũng phải
tôn anh làm đại ca. Sẹo trên mặt Chí, chỉ bởi mảnh chai, mảnh sành, sánh làm
sao được với tôn hoa Cửa Việt.
Dạo
ấy, sau hiệp đinh Paris,
mặt trận phía đông khá yên bình, đơn vi tổ chức anh em liên hoan văn nghệ cho
đời sồng tinh thần thêm vui vẻ. Là dân Thái Bình nổi tiếng hát chèo, anh Toản
trổ tài khiến chúng tôi phục sát đất. Anh hát hay, múa cũng dẻo. Tiết mục của
anh được chọn đi thi cấp tiểu đoàn. Cần phải tập thêm. Nhưng tập ở đâu ? Giữa
lán mà múa may quay cuồng thì cũng lố. Một lần thằng Tác và Tân “vịt”, bắt gặp
anh đang biểu diễn trong… nhà vệ sinh. Chuyện là, dạo ấy, hậu cần cũng khá. Mỗi
tháng mỗi lính được cấp một tập giấy năm hào hai để viết thư. Tôi viết đủ thứ
còn chẳng hết nữa là Tân “Vịt”. Hắn chẳng viết bao giờ. Hỏi tại sao hắn nói
ngại. Hắn sử dụng luôn tập giấy làm cái việc cần thiết mỗi buổi sáng. Thằng Tác
tiếc lắm, thế là, mỗi sáng, hắn đón Tân “Vịt” gần nhà vệ sinh, tay cầm tập giấy
báo cũ cắt vuông vức hẳn hoi, gạ đổi cho Tân “Vịt”. Có bận giở chứng, thằng Tân
không đổi, hai đứa đôi co, chính là hôm chúng bắt gặp anh Toản đang biểu diễn.
Tôi vội lôi hai đứa ra xa, kẻo anh ngượng không tập tiếp.
Mấy
hôm sau, anh nhận được thư nhà, buồn rười rượi, chẳng hát hò gì nữa. Hỏi gì
cũng không nói. Tôi tỉ tê mãi, anh mới kể:“Con vợ tao ở nhà lăng nhăng với
thằng hàng xóm. Mẹ chồng nàng dâu lủng củng không ai giải quyết được, nhắn tao
về”
Một
lần, nhân trực ban, tôi báo cáo với chính trị viên đại đội chuyện nhà anh Toản:
“Gay lắm, độ này anh ấy làm sao ấy, múa hát như điên trong nhà vệ sinh, không
cho ai vào. Không tin anh hỏi thằng Tân mà xem. Anh xem thế nào, xin tiểu đoàn
cho anh ấy về phép…”
Hai
tuần sau anh Toản được về phép thật. Hết phép, anh về đơn vị rất đúng hạn, mặt
mũi phởn phơ, tay xách theo đôi gà làm giống, gà hoa mơ cánh tiên, tuyệt đẹp.
Tôi hỏi anh, giải quyết chuyện gia đình thế nào. Anh cười: “Trông thấy cái mặt
tao, cả anh, cả ả lậy như tế sao, hứa đến chết cũng không dám ăn vụng. Chi bộ
thôn, thanh niên, phụ nữ, coi tao như anh hùng. Bắt tao kể truyện chiến đấu.
Rồi cái sẹo thế nào. Tao chẳng dám nói bị tôn chém, cứ phét lác lung tung. Còn
vợ tao, thôi thì tha cho nó. Nói thực nhé, mình mà có điều kiện thì cũng ăn
vụng chẳng kém ai”
Đầu
năm 74, chúng tôi chuyển quân về Triệu Độ. Đôi gà anh Toản mang về, lớn nhanh
như thổi, chẳng mấy chốc, trước lán tiểu đội, có hẳn một đàn gà. Mà đến lạ, đi
đâu quanh thôn cũng gặp, gà hoa mơ cánh tiên. Giống của anh tốt thật. Tháng đầu
mới về thôn, chưa làm được lán, chúng tôi phải chia nhau ở nhờ nhà dân. Tôi anh
Toản, Tân “Vịt” ở nhờ một gia đình. Anh chị chủ không còn trẻ, lấy nhau gần
chục năm không có con. Chị chủ trông tràn đầy nhựa sống, còn anh chủ ngược lại,
rất thiếu sinh lực. Chị chăm sóc chúng tôi thật chu đáo, đặc biệt với anh Toản,
có lẽ vì anh hát hay chăng?. Mấy tháng sau, nghe nói, chị có tin vui. Khỏi phải
nói, anh chị vô cùng sung sướng. Tôi nghi ngờ anh Toản là tác giả của tác phẩm
ấy. Có lần trực chiến, chỉ có tôi với anh, nửa đùa, nửa thật, tôi trêu. Anh vội
mắng át đi“..vớ vẩn…”. Nhưng có lúc lại nói: "mất gì của bọ”
Cuối
năm chị chủ nhà, sinh đựơc một thằng cu bụ bẫm. Cả thôn chúc mừng. Còn chúng
tôi, lên miền tây đón tết và chuẩn bị chiến dịch xuân hè năm 75.
Thế
mà, thoắt một cái đã hơn 30 năm. Tháng 10 năm 2005 tổng công ty VIETTEL, tài
trợ cho các anh em từng chiến đấu ở Quảng Tri về thăm lại chiến trường xưa.
Không bỏ lỡ cơ hội, tôi trở về Triệu Độ. Cảnh vật thay đổi rất nhiều. Tìm về
ngôi nhà xưa, không còn nữa. Hỏi chị hàng xóm, chị kể: “ Quãng mươi năm trước
cũng có một chú bộ đội có cái sẹo to về chơi, chẳng hiểu sao, sau đó vợ chồng
con cái bán hết nhà cửa, dắt díu nhau vào Nam làm ăn, từ đấy bặt tin tức”. Hỏi
đến anh con trai, chị mau miệng: “ Anh ấy đẹp trai lắm, chẳng giống ông chủ
chút nào. Phải cái răng hơi xấu”
Ôi
! Đích thị là Toản con rồi. Lại một con gà trống hoa mơ cánh tiên...
Mấy
lời cuối truyện. Để không làm ảnh hưởng tới cuộc sống riêng tư của các nhân vật
trong truyện, tôi đã thay tên, địa danh. Tuy nhiên, khó tránh khỏi liên tưởng,
“nếu có điều gì sơ xuất xin hãy lượng thứ”
@ Chuyện kể của chiến binh thành cổ Như Thìn trên
khucquanhanh.vn
Truyện của ông này nghe như lính Nguy Kể ấy nhỉ
Trả lờiXóa"Ông" quen đọc loại chém gió theo kiểu lên gân, lính chỉ có đánh, đánh là thắng.... , rồi chứ gì. Lính kg biết chơi gái ... chắc, kg biết ăn ngon mặc đẹp chắc, kg biết yêu chắc v.v.... ?! Lính cũng là người, thậm chí cùng học với ta, cũng yêu, thương hờn ghét, buồn vui chứ. Chuyện thật thì chả nge, nghe chủ nghĩa Mac.
Xóa