Post tiếp nhân ngày 27/7
Bác tôi về hưu đã lâu. Suốt 10 năm cuối đời của ông ngoại tôi, một mình bác chăm sóc, tắm rửa cho ông. Bác có năm người con trai nhưng hình như các anh không ai biết thời chiến tranh bác tôi huân chương đỏ ngực, giấy chứng nhận dũng sỹ phồng túi áo (theo đúng nghĩa đen). Các anh dường như không quan tâm câu chuyện về thời chiến tranh và bác cũng không muốn kể.
Bác tôi về hưu đã lâu. Suốt 10 năm cuối đời của ông ngoại tôi, một mình bác chăm sóc, tắm rửa cho ông. Bác có năm người con trai nhưng hình như các anh không ai biết thời chiến tranh bác tôi huân chương đỏ ngực, giấy chứng nhận dũng sỹ phồng túi áo (theo đúng nghĩa đen). Các anh dường như không quan tâm câu chuyện về thời chiến tranh và bác cũng không muốn kể.
Hồi mới ra trường,
thỉnh thoảng mệt mỏi về cuộc sống, tôi lại về thăm ông ngoại. Làng ông ngoại
tôi cạnh sông La, cuối mỗi buổi chiều, tôi thường ra ngồi đầu làng ngắm nắng
tắt trên dải Trường Sơn. Bác tôi thỉnh thoảng xong việc nhà thì ra ngồi cạnh
tôi và nhìn lên khu mộ Phan Đình Phùng trên sườn núi. Tôi thích lịch sử nên
thường gợi chuyện về những Đường 9 Nam Lào, Khe Sanh, Quảng Trị. Thỉnh thoảng
bác tôi vừa làm việc nhà vừa kể chuyện, còn tôi loanh quanh đi theo lắng nghe.
Các câu chuyện của
bác tôi rời rạc và dường như không liền mạch, giống như mạch nước ngầm thỉnh
thoảng lại trồi lên mặt đất rồi biến mất.
Năm 1972, quân đội
Sài Gòn bắt đầu phản công từ sông Mỹ Chánh và từng bước đầy lùi quân ta về thị
xã Quảng Trị. Vào thời điểm đó, các đơn vị đã bắt đầu cạn lực lượng dự bị.
Chiến trường cần lực lượng bổ sung gấp và Miền Bắc bắt đầu động viên tới sinh
viên các trường đại học và công nhân trong các ngành quan trọng vốn được miễn
nghĩa vụ quân sự.
Các cán bộ khung như
bác tôi ra Bắc nhận tân binh vừa được huấn luyện cơ bản để đưa vào chiến
trường. Bác tôi kể rằng trong đời sỹ quan của bác, lứa tân binh năm đó là lứa
có học vấn cao nhất. Chiến trường cần người gấp nên thời gian huấn luyện tân
binh được rút ngắn. Các tân binh trong nhiều trường hợp không được biên chế lại
nên họ hành quân vào Nam
theo đơn vị của họ khi nhập ngũ. Do đó, có những đơn vị toàn sinh viên của cùng
một trường đại học, hoặc cùng một huyện, một xã. Bác tôi nói, đó là điều mà cán
bộ quân lực thường tránh (vì với tỷ lệ thương vong nhiều khi lên tới 40-50% một
trận đánh thì rất nhiều gia đình trong cùng một địa phương sẽ nhận được giấy
báo tử cùng một lúc). Thế nhưng năm 1972, mọi điều đều khác – không có thời
gian cho tất cả những thứ đó.
Bác tôi nhận tân
binh ở Sơn Tây. Tất cả đều trẻ măng, đa phần là người thành phố, tốt nghiệp cấp
3 và rất nhiều sinh viên đại học. Mỗi người phải mang 40 kg bao gồm quân trang,
vũ khí, toàn bộ cơ số đạn chiến đấu và dự trữ. Lệnh trên xuống là trong mọi
trường hợp không được bỏ người lại, người nào ốm thì phải cáng mang theo. Lương
thực, quân trang thì có thể vứt lại nhưng vũ khí và đạn dược thì tuyệt đối
không. Người nào không đủ sức mang thì phải san sẻ cho toàn đơn vị.
Hầu hết số tân binh
đều chưa quen vác nặng đi đường trường, ngoài ra, vì thời gian huấn luyện ngắn,
các đơn vị khung ngoài Bắc chỉ kịp huấn luyện cho họ những kiến thức cơ bản
nhất. Mọi kinh nghiệm chiến đấu còn lại sẽ được cán bộ khung từ chiến trường ra
dạy họ trên đường vào Nam.
Chỉ hơn một tuần sau khi rời khỏi Sơn Tây đã có khoảng 10% số tân binh phải
cáng. Có nhiều người đơn giản không thể đi được vì toàn bộ bàn chân bị phồng
rộp. Lương thực có thể bỏ lại nhưng súng đạn thì phải mang theo – điều đó khiến
cho sức nặng phải mang của những người còn lại trong đơn vị lên tới 45-50 kg.
Mỗi chặng dừng chân, tân binh nằm vật ra như ngất, có người gục mặt vào ba-lô
khóc, có người đờ đẫn phải được xốc nách hai bên mới đứng dậy hành quân tiếp
được.
Cuối mỗi ngày, tân
binh dừng chân nhưng không được nghỉ ngay vì cán bộ khung phải dạy họ những
kiến thức tối thiểu để sống sót trên chiến trường. Đói đến hoa mắt, mệt đến mê
muội, nhiều tân binh gần như không thể nghe được nữa hoặc bùng nổ phản kháng.
Bác tôi kể, các cán
bộ khung hầu hết là cán bộ chiến đấu lâu năm. Hầu hết trong số họ đều xuất thân
từ nông thôn, đã đánh nhiều trận, đã chôn nhiều bè bạn, nên mỗi người trong họ
là một kho kinh nghiệm chiến đấu. Điểm yếu của họ là họ không có trình độ văn
hoá bằng những người lính mà họ huấn luyện. Những người lính sinh viên, được
học hành tử tế, có lý luận và thường xuyên vặn vẹo mọi lời của những người lính
cựu. Mâu thuẫn nhiều khi không được giải toả và chỉ có thể được dập tắt bằng kỷ
luật quân đội.
Có một lần, dưới một
chân dốc ở huyện Hương Sơn, Hà Tĩnh, bác tôi nhìn thấy hai người lính trẻ măng
chệnh choạng, mặt mờ đi, mặt xám ngoét cáng một người lính với nước da xanh
mướt. Người lính nằm trên cáng mặt trắng bệch vì sốt nhưng vẫn ôm khư khư chiếc
ba-lô to tướng. Bác tôi dừng cáng lại và lục tung ba lô của họ vứt lại những
thứ không cần thiết. Khi lục đến ba lô của người lính được cáng, bác tôi thấy
một mớ từ điển Nga-Việt phổ thông, thơ Puskin và các sách văn học khác. Bác vứt
không thương tiếc những cuốn sách đó bên vệ đường mòn. Người lính đang nằm, mặt
trắng bệch, rít lên qua kẽ răng “không được vứt sách của tôi, đó là từ điển Nga
– Việt, tôi là sinh viên hiểu chưa?” Bác tôi nhìn người lính và trả lời “thì
sao, bạn anh không cáng được những thứ này vào tới chiến trường, hiểu chưa?”.
Người bệnh binh ứa nước mắt, quay mặt về phía khác và nói đủ để bác tôi nghe rõ
“đồ… đồ ít học… đồ… đồ vô văn hoá!” Bác tôi sững lại nhìn người lính, rồi đưa
cho anh cuốn từ điển Nga Việt. Bác nói một câu bằng tiếng Nga. Người lính ớ ra,
nhìn bác không hiểu. Bác tôi nói lại bằng tiếng Việt “mở từ điển ra, đọc cho
tao mười từ bất kỳ bằng tiếng Việt! Đọc đi!” Người lính đọc mười từ, và bác tôi
đọc mười từ tiếng Nga tương ứng. Đọc xong, bác tôi cầm cuốn từ điển quăng mạnh
ra xa và nói “Nếu muốn tra từ tiếng Nga thì mày có thể hỏi tao. Còn từ giờ đến
khi vào tới chiến trường thì cố mà học được cách để chiến đấu!” Những người
lính sinh viên nhiều khi có ác cảm với các cán bộ nói giọng miền Trung như bác
tôi vì cho rằng họ ít học và giáo điều. Các tân binh không biết rằng bác tôi
từng học ở Nga và là giảng viên đại học bách khoa trước khi nhập ngũ. Bác tôi
nói, những người lính cựu có trong người phản xạ sinh tồn, đôi khi chỉ cần nghe
tiếng nổ đầu nòng của M79 là họ đã lăn tròn khỏi chỗ đang đứng cả mét. Những
người lính mới không có phản xạ đó, và nhiều khi vì không nghe những người lính
nông dân quê kệch, những tân binh phải trả giá bằng máu cho mỗi bài học.
Bác tôi kể rằng
nhiều người lính đã coi thường việc học tháo lắp và lau súng. Họ đôi khi cho
rằng việc nhắm mắt tháo lắp súng chỉ là một mánh khoé mà đám cán bộ cựu binh
thiếu lý luận đem ra loè họ. Chỉ sau này, khi được lôi lên sau mỗi trận bom vùi
trong thành cổ và đối phó với những trận xung phong của bộ binh sau đó, họ mới
hiểu mỗi một giây trong việc tháo, lau và lắp khẩu AK từ bộ phận của các khẩu
súng bị vùi lấp và gãy nát quyết định sinh mạng của. Đâu đó trên đất Hà Tĩnh,
bác tôi phải xử lý một trường hợp khác. Anh lính này người Hà Nội, to cao, dân
ngoài đê sông Hồng nên tính ngang tàng. Mỗi khi tập ném lựu đạn, anh không nằm
ép sát xuống mép công sự mà thường nhô cả người lên ném. Anh ném xa nhất đơn
vị. Mỗi khi bị cán bộ nhắc nhở, anh chỉ cười khinh khỉnh và vẫn làm như cũ. Bác
tôi nghe vậy liền cầm một cái roi tre cật ngồi ngay bên mép công sự và hô “ném”.
Anh tân binh lại hùng hổ nhô cả người lên ném và “vút” bác tôi quật thẳng vào
mặt anh. Người lính mắt long sòng sọc nhìn bác tôi. “AR-15 bắn cực nhanh, nếu
đây là chiến trường thì cả mặt anh đã nát rồi!” bác tôi nói. Người lính không
lặp lại chuyện đó nữa. Sau này khi đã vào thành cổ, khi chốt của người lính đó
hy sinh hết, còn lại một mình, nghe tiếng thuỷ quân lục chiến đang lội qua hào
ngoài bờ thành, lựu đạn hết, người lính đó đã nhô mình ra khỏi tường thành để
bắn nguyên cả một băng trung liên xuống hào. Đạn từ dưới bắn lên, anh gục trên
bờ thành nhưng chốt không mất. Khi đơn vị bác tôi tới, lôi anh xuống hầm, cả
ngực anh bị băm nát nhưng đôi mắt vẫn long lên trong cơn hấp hối.
Khi ở Quảng Bình
trước khi vượt giới tuyến, đơn vị bác tôi trú trong nhà dân. Vừa được nghỉ là
bộ đội nằm vật ra khắp nhà ngủ như chết. Bác tôi đi tuần một vòng rồi về căn
nhà mình trú tạm. Bộ đội nằm la liệt dưới sàn, ngáy như sấm. Trên chiếc bàn
uống nước, một đôi trai gái đang quấn riết lấy nhau rất tự nhiên, quần áo, súng
trường K44 của dân quân đặt trên chiếc ghế cạnh bàn. Bác tôi quay ra ngồi ngoài
đầu hè, bật radio khe khẽ. Bọ già chủ nhà ra ngồi nghe ké. Bác tôi hỏi “con gái
bọ lấy chồng rồi không ở riêng sao?” Bọ trả lời “đâu, nó còn con gái”. Bác tôi
chỉ vào phía trong nhà “lính của tôi đang ở trong đó với con gái bọ?” Bọ trả
lời “không, thằng người yêu nó!” Bác tôi ngạc nhiên “bọ sao dễ tính vậy?” Bọ
bình thản “ở đây sống chết từng giờ, chúng nó yêu nhau thì kệ chúng nó, tính
chi chuyện đó!” Bác tôi thở dài và nhìn lên bầu trời đầy sao. Năm đó, bác tôi
35 tuổi. 35 tuổi nhưng những người lính 17-18 đã gọi bác tôi là “bố”. Khi vào
đến sông Thạch Hãn, đơn vị bác tôi mất 20% quân số. Vượt sông vào thành cổ, chỉ
sau một tuần, quân số chỉ còn lại cũng chừng đó. Theo số liệu chính thức của
quân đội sau này, mỗi ngày đêm, quân ta mất một đại đội trong thành cổ.
Bác tôi kể, cuộc
chiến trong thành cổ cũng có những quy luật của nó. Cuộc sống của thành cổ phụ
thuộc toàn bộ vào bến vượt bên bờ sông Thạch Hãn. Cứ đêm đến là có một dòng
chảy thương binh từ thành cổ ra bờ phía Bắc và một dòng chảy tiếp viện và súng
đạn ngược lại vào Nam.
Công binh đã kéo những sợi cáp ngầm dưới mặt nước để bộ đội bám vào khi vượt
sông. Pháo toạ độ căn thường xuyên trên khu vực đó và có nhiều tân binh chưa
từng bắn một phát súng đã hy sinh ngay khi chưa đặt chân được lên bờ. Vào ban
ngày lính thuỷ quân lục chiến đánh dọc hai bên bờ sông để cắt bến vượt khỏi
thành cổ. Có ngày nguy cấp, bên ta chỉ còn giữ được 50 mét bờ sông. Cứ đêm
xuống là các đơn vị trong thành cổ lại phản kích đánh bật thuỷ quân lục chiến
ra để giành lại một đoạn bờ sông chừng 500 mét. Sáng ra, mọi việc lại lặp lại
như cũ.
Bác tôi nói, ở thành
cổ, đôi khi các bên chỉ cách nhau một tầm lựu đạn ném. Vì vị trí quá gần nên
khi đêm xuống pháo binh của quân đội Sài Gòn không thể sử dụng. Nhưng cũng vì
vị trí quá gần nên khả năng giữ bí mật trước khi phản kích là hầu như không
thể. Đơn vị bác tôi thường xuyên được sử dụng để tham gia các trận phản kích về
đêm đó. Chỉ có trận đánh trong đêm đầu tiên là đẫm máu. Vì địa hình hẹp, bắn
xong không kịp lắp băng đạn nên đơn vị bác tôi đã lắp lê trước khi xung phong.
Ai đã từng ở trong quân đội sẽ biết sự khác nhau lưỡi lê của súng trường K-44
(Mosin Nagan) và AK. Lê của súng K-44 có bốn cạnh, khi đâm sẽ xuyên thấu người
và chỉ để lại một vết máu nhỏ như đồng xu. Lê của AK khi đâm vào người và xoay
như hướng dẫn sẽ để lại một vết phá rất lớn. Ngày hôm sau, khi tái chiếm lại
trận địa, binh lính bên kia nhìn thấy kết quả của trận xáp lá cà đêm trước – và
đêm xuống, khi tiếng hô của đơn vị bác tôi truyền dọc chiến hào “lắp lê!” họ
bắn vài loạt đạn rồi rút. Và sự việc cứ diễn ra như vậy về đêm, như có một thoả
thuận ngầm. Đơn vị bác tôi hô vang “lắp lê” và đợi vài phút, sau đó bên kia sẽ
bắn đổ đạn một hồi rồi rời khỏi trận địa. Sáng ra, pháo lại dội và họ lại tái
chiếm chỗ cũ.
Bác tôi là một trong
những người cuối cùng rút ra khỏi thành cổ, bơi vượt sông Thạch Hãn về lại bờ
Bắc. Đơn vị bác tôi còn lại 40 người khi vượt sông, trong số đó chỉ có 16 người
là lành lặn. Trong danh sách quân lực của trung đoàn bác tôi, quân số gấp 7 lần
khi mới vào trận. Bác tôi kể, người chỉ huy già của bác tôi, sau này hoà bình,
khi gặp đám tân binh còn lại của hồi đó lần nào cũng khóc “ngày ấy chúng mày
chết nhiều quá, có oán bố không?”
Khi tôi kể cho bác
nghe về một câu chuyện trên báo Thanh Niên, trong đó người liệt sỹ đêm trước
khi hy sinh đã viết cho vợ chưa cưới chỉ dẫn rõ nơi anh sẽ nằm xuống để sau này
hoà bình lập lại mà tìm. Bài báo viết rằng đó là một dự cảm huyền bí, kỳ lạ của
người nằm xuống. Bác tôi cười mếu máo “con ơi, có gì lạ đâu, chỗ đó là bến đáp
của thành cổ, hết lớp này đến lớp khác hy sinh nơi đó, có gì là lạ đâu!”
Bác tôi không thích
bài “đường ra trận mùa này đẹp lắm” của Phạm Tiến Duật. Bác bảo, nhà thơ có
cách nhìn của họ, bác là người lính, những con đường ra trận của bác thấy toàn
máu, kiệt lực, mồ hôi và nước mắt. Điều khác biệt là dù như thế, chúng ta vẫn
cứ đi vì không có con đường nào khác. Bác cũng từ chối khi tôi muốn mua tặng
bác một cuốn nhật ký nổi tiếng của một người lính trẻ tuổi hai mươi. Bác tôi từ
chối và nói với tôi rằng: “Con ạ, chính bác đã đi trên con đường của cuốn nhật
ký đó. Đến giờ, bác chỉ tiếc rằng ngày đó bác không rèn được quân nghiêm hơn
nữa. Nếu thế, chắc các bác không phải khóc “ngày ấy chúng mày chết nhiều quá,
có oán bố không?” Bác tôi thẫn thờ nhìn dãy núi Trường Sơn xa xa và nói “ông
Phạm Tiến Duật là nhà thơ, viết là vũ khí của ông ấy. Tụi lính sinh viên của
bác cũng thế, lãng mạn và nhiều hoài bão. Nhưng bác là một người lính, bác chỉ
tiếc là ngày đó, giá như mình nghiêm hơn nữa, ‘ác’ hơn nữa. Nếu thế, chắc nhiều
đứa giờ này còn sống.”
@ Theo Bao Anh Thai.
Ca sĩ Randy với bản tình ca ‘Sau cuộc chiến’.
http://www.youtube.com/watch?v=sIvslqUB8RA
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét