Chia quân và thành lập các đơn vị mới
(Ảnh tôi trước ngày đi chiến trường) |
Đến mãi tận mùng 5 tết Nguyễn Vũ
Tiến đến và đưa tôi một lá thư nói: “Tao về trường, ra chỗ bưu điện, lục thấy
lá thư này, nó có vẻ lăn lóc ở đấy lâu
rồi, hoá ra là của mày”. Tôi cầm bức thư nhìn phong bì, đây là thư người yêu tôi.
Đã mấy tháng nay mất liên lạc, vì thời điểm giao thời, Hiền cũng đi học, tôi đi
bộ đội. Hồi đó tôi cứ tưởng Vũ Tiến chỉ về ăn tết ở Hà Nội, nhưng đầu năm 2011
ba chúng tôi gồm Vũ Tiến, Thiều Tiến gặp nhau ở Huế, Vũ Tiến mới nói: “hồi đó
tớ xin đơn vị nghỉ phép về nhà ở Quảng Bình”. May thật cám ơn Vũ Tiến. Nếu
không nhận được lá thư này, bọn chúng mình đã bị thất lạc nhau trong điều
kiện chiến tranh rồi.
Tôi
được làm A trưởng A1 C6. Ban chỉ huy đại đội 6 hoàn toàn mới, anh Nguyễn Văn
Điến đại đội trưởng (trung uý), anh Lại Văn Châu (trung uý) Chính trị viên, Nguyễn Văn Thành (thiếu
uý) đại đội phó, anh Sức chính trị viên phó. B trưởng B1 là anh Nguyễn Văn
Phượng (thượng sĩ), B trưởng B2 Sằn Say Mằn (anh Mằn người Hoa nguyên từ lính
pháo biển sang). B trưởng B3 anh Ngọc người Nghệ An.
Vậy là các trung đội không có B
phó
Sau khi phân chia, C6 chúng tôi về
ở khu nhà phía sau. Sau đó vài hôm còn bổ sung thêm một số anh em người Thanh
Hoá nữa
Tiểu đội tôi gồm có :
Nguyễn
Thành Sự A trưởng
Nguyễn
Văn Duy Đại học mỏ (hay xây dựng tôi
không rõ) trắc thủ chính
Hoàng
Văn Nhi (dân tộc La Chí, Đảng Viên) pháo
thủ
Nguyễn
Văn Hùng : người Thanh Hoá pháo
thủ, B40
Nguyễn
Ngọc Thanh : người Thanh Hoá pháo thủ
Trần
Văn Tuyên : người Thanh Hoá pháo thủ
Và
1 anh người dân tộc tôi không nhớ tên
Tiểu đội 2 có
Nguyễn
Khắc Kỳ A trưởng
Nguyễn
Sĩ Cứ Trắc thủ chính
Phạm
Văn Thể Trắc thủ
Hoàng
Văn Đạo pháo thủ (người huyện Văn Quán Lạng Sơn)
..
Tiểu đội 3
Trẩn
Quốc Tuấn (người Nam Định) A trưởng
Tường (người Tuyên Quang) trắc thủ
chính
Phạm
Bá Tráng trắc thủ (người Nghệ An)
Phạm
Văn Phượng trắc thủ
Và
một số anh em người dân tộc
Các trung đội khác tôi không nắm
hết, nhưng chỉ biết có các A trưởng
B2 :
A trưởng : Nguyễn Văn Cơ (đại học xây
dựng)
A trưởng : Lê Văn Trung
A trưởng : Nhuận (đại học Bạch khoa)
B3 :
A trưởng : Chu Trọng Cát
A
trưởng : Hoa (sau này anh Hoa hy sinh Trần Thanh Hải thay)
A trưởng : Chiến (Đại học Bách Khoa)
Tôi quên mất tên anh Chiến năm 2012 anh
Cát nói lại tôi mới nhớ
Không biết tôi có nhầm lẫn chỗ nào
không. C bộ có
Anh nuôi: Nùng A Tỷ, Tới, Lý Láo
Xì anh Người dân tộc La Chí (có vợ, tôi quên tên rồi có lẽ là Xì), Lý Xỉn Củi
Người dân tộc La Chí. (họ tên các anh Xì, Củi, tôi cũng quên mất, phải
hỏi anh Châu mới nhớ ra)
Quản lý: Nguyễn Văn Dinh (ĐH xây
dựng)
Y Sĩ : Hoàng Văn La
Trinh Sát: Phạm Xuân Loát, Đinh
Quang Nguyện, Lộc
Thông Tin : Đỗ Văn Hùng, Trần Văn
Thoa
Quân Khí tôi quên rồi
Một anh tên là Thành ở Xã Nhuận
Trạch Lương Sơn Hoà Bình (cùng anh Tới) không biết ở bộ phận
nào (tên anh Thành tôi cũng phải hỏi qua anh Loát, nhưng chưa rõ họ)
Không biết đã đủ chưa
Như vậy C bộ không kể ban chỉ huy đại đội quân
số cũng được gần nửa trung đội
Phòng ở cả đại đội chúng tôi cùng một nhà,
phòng đầu hồi là ban chỉ huy,
Phòng tiếp là B1, các giường A1 được xếp bên
ngoài và tính từ trong đi ra, giường tôi ở trong cùng, tiếp theo là A2, dẫy
giường trong có vài người A2 tiếp đến A3.
Phòng tiếp là của B2, tiếp nữa B3. Lính C bộ ở
tại cái nhà ngang gần bếp. Sau khi ổn định chỗ ở chúng tôi được gấp rút đi vào
huấn luyện, một số anh em dân tộc chưa biết rõ tiếng Kinh. Được khoảng 10 hôm
sau khi về C6 thì một đêm khoảng 10 giờ, anh Phượng thông báo, có bộ đội bỏ
trốn, A1 có một người, A3 có nhiều nên đêm đó anh Tuấn phải đuổi theo để bắt.
Nhưng chắc không đuổi kịp số anh em đó, thế là A1 của tôi hụt mất một người.
Sau này mới có thêm anh Hùng, anh Thanh, anh Tuyên như đã nêu. Với biên chế một
tiểu đội cần một tiểu đội trưởng, một trắc thủ chính một B40 và 4 pháo thủ và
trắc thủ, thì chỉ cần có 7 người. Trước tiên anh Phượng yêu cầu A tôi chọn
người giữ B40, nên chọn anh Hùng. Từ đó anh Hùng được tập ngắm thêm bắn B40.
Các anh em còn lại theo tôi nhớ trong thời gian đó không luyện xạ kích, mà
chúng tôi cho luyện thiết lập hòm đạn bệ. Anh Điến còn luyện cho cấp A trưởng
chúng tôi cách chỉ huy, ra khẩu lệnh. Mỗi lần như vậy anh lại lôi câu chuyện
tiếu lâm anh chàng ăn tham ra để làm “gương” về cách nói ngắn gọn của anh ta,
khi ăn mà có người hỏi: còn cha mẹ không? Tiệt,
lại hỏi có mấy anh em ? mỗi . Dần dà tôi biết các anh cán bộ đã từng
tham gia chiến đấu, hoặc đã có những kinh nghiệm chiến trường. Anh Phượng kể về
một số kinh nghiệm chiến đấu của anh Thành, hồi trong chiến trường anh Thành cũng làm C
phó, anh Thành có những mưu mẹo đánh trận. Anh Châu vui tính dễ gần. Anh Điến
nghiêm, dứt khoát và cũng có nhiều kinh nghiệm, nhất là trong công tác trinh
sát.
Chúng tôi tiếp tục được được huấn luyện
về sử dụng bản đồ, môn này có vẻ hấp dẫn, vừa mới lạ, vừa được thoải mái tự do
không bị gò bó. Với các bài tập xác định vị trí thực địa và trên bản đồ tạo cho tôi nhiều khám phá. Anh Điến,
anh Phượng thỉnh thoảng cũng nêu thêm các kinh nghiệm về lấy các điểm làm mốc.
Việc đo đạc trên bản đồ cũng thật hấp dẫn, để đi phương vị, thực hiện các cuộc
dã ngoại. Trong các đợt đi dã ngoại anh Điến luôn tổ chức cho đơn vị ăn thịt
chó. Đầu tiên các anh em người dân tộc
ăn kiêng đủ thứ, như không ăn thịt trâu, và hình như thịt chó cũng không thì
phải. Đợt dã ngoại đầu tiên là hành quân tới một làng phía huyện Quốc Oai hay
Thạch Thất gì đó, tôi còn nhớ, chiều hôm đó chúng tôi hành quân đi theo đường
tắt đi ra phía đường 21, không đi theo hướng
Thạch Thất, mà rẽ phải theo con đường đất to, đi qua đoạn mà bên đường có các vườn trồng cam,
chúng tôi đến một cái làng và dừng lại. Chiều đó chúng tôi chia theo từng tiểu
đội lấy vải mưa và chăn dựng trại, buổi tối cả đơn vị sinh hoạt và vui văn nghệ.
Sáng hôm sau chúng tôi đi từng nhà để mua chó, chó ở đây rẻ. Thế là mấy anh em
dân tộc dần được làm quen với thịt chó. Chiều chúng tôi nhổ trại hành quân về,
Một đợt khác chúng tôi lại được dã ngoại, lần này đại đội hành quân với địa
hình phức tạp hơn, Trước khi lên đường anh Điến tập hợp đơn vị và chỉ định vị
trí sẽ tới trên bản đồ và phát lệnh hành quân.
Sau khi đi tới chân đồi có Bốt Lăn, chúng tôi rẽ về phía trái vòng ra
một cái đồi thấp rồi tới trước một vùng lầy. Đến đây phải sử dụng cách đi
phương vị để tránh đầm. Lúc này phải vận dụng kiến thức đo đạc và vật chuẩn, dựa
vào địa bàn để đi. Cuối cùng đến khoảng
gần cuối chiều chúng tôi cũng đến đích. Nơi chúng đến là một quả đồi về phía
trái đường vào Ban chỉ huy trường bắn khoảng hơn một cây số, quả đồi này cũng
có nhiều cậy mọc lúp xúp, chứ không quang đãng như xung quanh doanh trại chúng
tôi. Đến đây sau khi phân công người nấu ăn, còn lại toàn bộ lực lượng tập
trung dựng trại. Khoảng 2 giờ rưỡi sáng chúng tôi được lệnh tập hợp rút quân
về. Đêm đó trời âm u không có trăng, sao, tối đen như mực. Quả là anh Điến khéo
chọn ngày. Chúng tôi lại căn cứ vào bản đồ, dựa vào địa bàn đi phương vị, tuy
nhiên đi theo cả đoàn nên cứ dựa vào tiếng động phía trước để mò theo, chứ đèn
đóm đâu mà nhìn địa bàn. Khoảng 4 giờ
sáng, các tiểu đội đã đến vị trí và anh Điến cho dừng lại. Anh Điến nói: ”đến
đây các đồng chí có thấy điều gì không”. Chúng tôi chỉ thấy tối thui. Anh Điến
lúc đó mới lên lớp: “khi trời tối đen, muốn biết phía trước thế nào thì cúi sát
đất nhìn” ta có thể thấy điều gì đó. Quả thật sau khi cúi theo cách của anh, chúng
tôi phát hiện có một quả đồi trước mặt. Vượt qua quả đồi thì trời dần sáng và
chúng tôi về doanh trại. Lại một đợt dã ngoại khác, chúng tôi đi độc lập theo
từng tiểu đội. Lần này hình như chỉ để cho tiểu đội độc lập hoàn toàn trong việc tổ chức hành quân, nấu ăn.. Tiểu
đội tôi được chỉ định đi về một
hướng, phía trường bắn và cách xa nhà dân. Đợt này đi thoải mái hơn, cả
tiểu đội được chia gạo, nồi, thức ăn, hành trang gọn nhẹ. Chúng tôi cũng đi lần
mò tìm tới vị trí đã cho trên bản đồ. ở đấy là khoảng đất trống khô, và cũng có
bóng cây. Hôm đó trời nắng. Nên khi đến nơi chúng tôi kiếm củi, vào xóm xin
nước nấu ăn. Ăn xong nghỉ trưa, anh em lại thu dọn đồ đạc hành quân về.
Cùng
với việc huấn luyện các kỹ năng trên, các tiểu đội vẫn tiếp tục tập ngắm cho bộ
đội, nhất là xạ thủ B40. Khoảng cuối tháng 3 đại đội tổ chức cho các xạ thủ B40
bắn đạn thật. Chúng tôi lại tập hợp tại chân núi Bốt Lăn. Vị trí bắn lần này
khác với đợt trước. Cự ly bắn tôi không còn nhớ, chắc khoảng sáu bảy chục mét
gì đó vì cự lý tối đa cho phép của đạn B40 khoảng 100 mét thôi
Kể từ hôm có một số anh em bỏ ngũ, anh
Châu có gọi tôi và Nhuận nói chúng tôi chuẩn bị bài phát biểu về thanh niên
trước yêu cầu chống Mỹ cứu nước, và nói ngày đại đội sẽ tổ chức cho 2 người
phát biểu. Đồng thời anh bảo riêng tôi :”cậu
hãy sáng tác một bài hát về đại đội”. Vào
buổi tối sau đó vài hôm dưới ánh đèn dầu, tôi và Nhuận được mời lên để phát biểu.
Nhuận được giới thiệu để nói trước. Không ngờ tay Nhuận ăn nói văn vẻ ghê gớm,
anh ấy còn dẫn thơ của Tố Hữu nữa, tôi còn nhớ câu thơ trích của anh ấy như sau:
“Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
Mà lòng phơi phới dậy tương lai”
Anh Nhuận nói hết cả thời gian, thế là tôi
không phải phát biểu. Không biết tôi nhớ có đúng không Nhuận cũng là sinh viên
Hoá K14 Đại học Bách khoa (thế mà sau này anh lại được quân đội cho đi học bác
sĩ, cũng như anh Duy ở tiểu đội tôi là dân xây dựng hay mỏ gì đó mà sau này
cũng thành bác sĩ). Còn tôi mắc nợ anh Châu bài hát. Một hôm anh Châu hỏi đã nghĩ
xong bài hát chưa, tôi nói :”không biết
sáng tác thế nào”, anh bảo tôi lên phòng C bộ, và nói :“cậu nghĩ đến đâu cứ nói
lên, cả 2 người cùng sửa”. Tôi chẳng biết sao, cứ buột miệng nói đại: “Trùng
chập trùng đoàn 6 ta đi” đến đó là tịt, sau đó anh Châu và tôi có thêm những gì nữa và giai điệu thế nào bây
giờ tôi cũng quên mất. Ấy thế mà anh Châu cũng phổ biến luôn trước đại đội. Bài
hát “tuỳ hứng” đó. Không ngờ nó báo hiệu
cho tên của đại đội sáu tiểu đoàn 371 chúng tôi trở thành bất diệt. Mà tôi lại
là một trong những người đầu tiên của đại đội đó
Là tiểu đội trưởng tôi làm quen với công
tác trực ban, kiểm tra bộ đội, kiểm tra vệ sinh duy trì giờ giấc của đơn vị.
Dần dà cũng biết được một ít về một số anh em dân tộc. Như y sĩ Hoàng Văn La,
anh chàng này béo trắng nói tiếng kinh giỏi lắm, anh ấy kể đã có vợ rồi nhưng
chưa cưới, sau khi đi bộ đội về sẽ tổ chức. Còn có anh Tráng Khái Sài sôi nổi vui
tính, Vàng A Phủ khoẻ mạnh trung thực. Vàng Diu Lìn hiền lành, Lý Láo Xì chăm
chỉ, …. Các anh em dận tộc ở cùng trung đội tôi sẽ có những nhận xét riêng
Hôm về tết khi đi thăm bạn bè tôi được
biết Sứ, một bạn gái thân hồi học cùng lớp với tôi hiện đang dạy học cấp 2 ở xã
Tiến Xuân huyện Lương Sơn gần đơn vị.
Hồi đó học sinh lớp 10 học thêm 2 năm gọi là mười cộng hai là ra đi dạy. Một
chiều chủ nhật sau tết tôi xin phép anh Phượng đi chơi, theo đường đất tôi đi
đến 2 tiếng mới tới nơi. Trường bạn tôi dạy vẫn còn giữ tình trạng thời chiến,
và chắc cũng nghèo. Mái lớp bằng tranh, xung quanh che liếp. Vậy là dù đi bộ
đội cho đến lúc này thỉnh thoảng tôi còn được gặp lại bạn cũ, đó cũng là một
điều may.
Sau khi C5 huấn luyện được chia ra và thành
lập các đơn vị mới, tình hình toàn tiểu đoàn không còn yên ắng như trước tết.
Cứ lâu lâu lại có vài xe Zin về là một đại đội lên đường đi chiến đâu. Bấy giờ tiểu
đoàn đã có C1,C2,C15, C3,C4, C5,C6 (sau
này có thêm C7 nữa). Khi đơn vị nào chuẩn bị lên đường thì trước đó một thời
gian bộ đội được ăn bồi dưỡng, khẩu phần ăn bồi dưỡng được tăng thêm cá thịt,
thức ăn. Tôi còn nhớ, hình như C1,C2, C15 đi trước, rồi khoảng đầu tháng ba C3
lên đường, giữa tháng ba đến C4 sau này gặp lại mới biết các anh C3 đi chiến
trường Quảng nam, Quảng Ngãi. C4 đi
B2 trong vùng Nam Bộ. C5 đi vào
cuối tháng 3.
Rồi
thì cũng đến lượt đại đội tôi được ăn bồi dưỡng, thời gian đó là khoảng tuần
đầu tháng tư năm 1972. Khẩu phần nghe đâu được 2 đồng tám một ngày, như vậy là
tiêu chuẩn ăn gần gấp 4 lần bình thường.
Lúc này anh Điến huy động anh em tăng
cường đi mua chó. Vì có lẽ ngoài chó ra chẳng biết mua gì thêm, thịt lợn ăn
theo tiêu chuẩn phiếu rồi, và cũng chóng chán. Nhà bếp lúc này bận rộn nhiều.
Chúng tôi ăn bồi dưỡng được khoảng 10
ngày. Vào buổi sáng hôm đó, ngày 13/4 năm 1972, đại đội tôi nghe anh Thành đại
đội phó giảng về mìn nhảy phòng bộ binh trong phòng của B2. Khoảng 10 giờ thì
có khách tới thăm, đó là một sĩ quan cấp
trên. Sau vài phút hỏi thăm tình hình huấn luyện và sẵn sàng chiến đấu, anh sĩ quan nói: “thôi nhé, tôi sẽ đọc lệnh cấp trên giao nhiệm vụ cho
đơn vị các đồng chí đi chiến đấu”, sau
khi đại đội tập hợp chỉnh tề, anh ấy mở xà cột lấy lệnh ra đọc. Không biết đó là
lệnh của Bộ tư lệnh 351 hay của bộ Tổng Tham mưu tôi cũng không nhớ. Người sĩ
quan còn nói: “ngay bây giờ cán bộ tiểu đoàn sẽ chuẩn bị mọi thứ cho các đồng
chí, trong ngày hôm nay phải nhận và chuẩn bị xong, đêm nay xuất phát”.
Thế là mọi việc đang làm phải dừng lại.
Đại đội 6 chúng tôi là đơn vị cuối cùng xuất phát. Tiểu đoàn chỉ còn lại D bộ
và ban chỉ huy. Chúng tôi nhanh chóng ăn cơm, nhưng khác với mọi ngày ăn chẳng
thấy ngon miệng gì cả. Buổi trưa tôi tranh thủ mấy phút viết thư báo tin cho
người yêu tôi, mà cũng chỉ kịp viết một lá, không kịp viết cho ba mạ tôi (vì
trước đó tôi đã viết về và nói khoảng thời gian có thể đi B cho ba, mạ rồi). Xe
ô tô tới tấp chở về mọi thứ, không biết có phải xe của tiểu đoàn không, nhưng
chắc tiểu đoàn phó đã phải cố gắng để giúp cho chúng tôi lên đường tốt đẹp
Chiều đó chúng tôi cấp tập nhận quân
trang, quân dụng mới. Tất cả các thứ cũ bỏ lại hết kể cả quần áo v.v…
Mỗi trung đội có 1 địa bàn, 1 ống nhòm,
nghe nói 100 viên pin con thỏ không biết có đúng không.
Mỗi tiểu đội có:
2 AK báng gập có lê còn mới của
Liện Xô và mỗi khẩu 60 viên đạn, 2 hộp băng đạn,
A trưởng 1 khẩu , trắc thủ chính 1 khẩu
1 đèn pin
1
bật lửa và 100 viên đá lửa
1 B40 cho xạ thủ B40
1 Xoong 20
1
hộp bột trứng 5 kg
5
kg bột cá, được gói từng gói 1 kg
5
Kg ruốc bông, được gói từng gói 1 kg
Trang bị cá nhân
Mỗi người 2 quả lựu đạn gang
1
ba lô,
1 mũ cối
1
mũ tai bèo
1 tăng nilon (B trưởng trở lên vi
nilon),
1 võng kép (B trưởng trở lên vi nilon),
1 màn (B trưởng trở lên tuyn),
1 ruột tượng đựng gạo, và gạo (ruột
tượng đựng được khoảng 7 kg gạo)
1 túi đựng cơm nắm (bằng vải trắng) sau
này tôi dùng làm túi đựng đạn AK
1 xẻng cá nhân
1 dao găm
1 bi đông nhôm có ca
1 thắt lưng
1 xanh tuya rông da (thứ này dở ẹc
trông có vẻ đẹp, nhưng khi thấm mồ hôi và nước nó quắn như ruột chó, đeo đau cả
người), sau này phải tìm của Liên Xô, hoặc của Mỹ thì thật tốt
1 bát ăn cơm tráng men (lính gọi là bát
B52)
1 ăng gô nhôm
1 đôi dày cao cổ
1 đôi dép cao su, 1 sợi quai dép cao su
(khoảng 1m),
1 hộp bao vải nhựa y tế (trong có: 1
tuýp thuốc chống muỗi, 1 tuýp thuốc chống rắn cắn, 1 lọ bổ máu (thuốc sắt, 100v), 1 lọ thuốc khử trùng nước
(100v), 2 ống ê te phòng độc, 1 vỉ thuốc sốt rét số 2, 1 vỉ thuốc sốt rét số 3,
2 gói gạc vô trùng, 1 lọ thuốc B1 (100v), 1 gói trứng cá bổ mắt (100v)
2 bộ quần áo dài, 2 bộ quần áo lót (áo
cộc tay), 2 đôi tất, 1 khăn mặt
1 Kg muối ăn
1 gói mì chính 1 lạng (hồi đó có một
lạng mì chính là ghê lắm, vì ở nhà một gia đình mấy tháng mới được bán 1 gói
nhỏ chưa đến 30 gam)
Cả trung đội hình như
còn được 1 lưỡi cưa
Tất tần tật cả buổi chiều lẫn buổi tối chúng
tôi phải xắp xếp cho xong. Mọi cái đều gói gém trong ba lô và xung quanh chiếc
xanh tuya rông. Riêng xanh tuya rông đeo vào người có lẽ nặng tới 10 cân. Chiều hôm đó cả đại đội làm chứng minh thư
giải phóng, đó là một tờ giấy có ghi tên và 1 dãy số, có 2 ô trống để chúng tôi
in vân ngón tay cái vào. (Tờ chứng minh thât mỏng manh
chỉ bằng nhãn vở học sinh. Nếu vô ý bị nước vào là nhàu, hoặc nhoè. Sau này vào
chiến trường tôi thấy lính Mỹ và lính VNCH có thẻ bằng miếng Inox, gọi là thẻ lính. Có lẽ chúng ta đã không tính
đến việc sau chiến tranh nếu có một người lính ngã xuống làm thế nào để tìm được tên tuổi, thân nhân anh ấy, nên đã gặp nhiều khó khăn. Nếu như ta cũng làm 1 cái gì
đó giống như thẻ lính thì bây giờ công việc xác định thân nhân của các liệt sĩ
sẽ thuận lợi biết bao. Có lẽ ngày nay các nhà quân sự, các nhà làm chính sách
cũng nên suy nghĩ về điều này).
Chiều hôm đó từng tiểu đội tự nấu
cơm riêng. Vậy là chúng tôi chưa kịp dùng
hết tiền được bồi dưỡng. Các anh em trong C bộ được phân về biên chế trong các tiểu
đội. Các thay đổi nhân sự trong trung đội tôi như sau:
A1 được thêm Phạm Xuân Loát (là
lính trinh sát), Nùng A Tỷ anh nuôi,
A3 nhận thêm Nguyễn Văn Dinh (quản
lý), Trần văn Tuyên A1 chuyển sang A3,
Tôi không nhớ A2 có bổ sung thêm
ai không
Từ thời điểm này ngoài tên đơn vị
là đại đội 6, đại đội
tôi còn có tên trong chiến trường là Đoàn 672, và vũ khí 9M14M của chúng tôi có tên là B72 (có mặt ở B năm 72?)
Như vậy là A tôi có 7 người và A1
nếu Loát đã được huấn luyện bắn B72 thì A1 có 3 trắc thủ, ngược lại thì chỉ có
2
A2 vốn đã có 3 trắc thủ (Kỳ, Cứ, Thể)
A3 cũng vậy nếu Dinh đã được huấn
luyện B72 thì có 4 trắc thủ (Tuấn, Tường, Phượng, Dinh)
Sau này căn cứ vào ngày ghi trên lá thư viết
cho người yêu tôi biết rằng ngày đi chiến đấu của đại đội 6 là 14/04/1972 . Bây
giờ lá thư ấy bị mối xông mất rồi, tôi muốn kiểm tra lại cũng không còn nữa.
Đến
1 giờ rưỡi sáng (Ngày 14/04/1972). Anh Điến
thổi còi đánh thức đơn vị dậy. Chẳng cần đánh thức, vì chúng tôi có ngủ đâu.
Ngoài các anh cán bộ đã tham gia chiến trường, phần lớn chúng tôi đêm nay là
đêm đầu tiên của những ngày chiến đấu. 3 xe Zin đã đến từ lúc nào và đang đỗ
giữa sân. Lục tục khoảng 2 giờ rưỡi sáng xe chuyển bánh, mỗi trung đội một xe. Chắc
ban chỉ huy chia nhau ngồi ở cabin. Đoàn xe đến Hà Nội đi về phố Đội Cấn rẽ vào Quần Ngựa đỗ trước
cổng Bộ tư lệnh 351 (hồi đó có lẽ bộ tư lệnh 351 rộng lắm. Ngày nay chắc đã bị
chia cắt ra nhiều phần, nên có lần tôi chỉ có thể đứng nhìn cổng của cơ quan bộ
từ một ngã ba trên đường Đội Cấn. Hình như là tại số 463 Đội Cấn, mà sao trong
giấy tờ không đề rõ địa chỉ nhỉ, chỉ thấy ghi là ở phường Cống vị). Các anh
trong ban chỉ huy vào làm việc với Bộ Tư lệnh, chúng tôi chờ trên xe. Khoảng
nửa giờ sau, xe tiếp tục hành trình. Đến
khoảng hơn 8 giờ sáng chúng tôi tới ga Ninh Bình. Chúng tôi xuống xe
hành quân bộ theo đường 10 đi khoảng 3 cây số, rồi rẽ vào một làng bên tay phải
con đường, chúng tôi chia nhau tạm nghỉ ở các nhà dân. Một số anh em quê gàn
đấy xin phép ban chỉ huy đại đội về thăm nhà. Thế là chúng tôi đã đi được một
chặng đầu của hành trình.
Khoảng
4 giờ chiều chúng tôi được lệnh hành quân về lại ga Ninh Bình, tiểu đội tôi đi
trước, tôi là người đi đầu. Vậy là chúng tôi đã làm quen với việc mang vác được
vài cây số, nhưng chưa phải mang khí tài. Chiều hôm đó trời nắng, số anh em dân
tộc có lẽ chắc chưa quen đi trên đường bằng, tôi thì cứ đi vượt lên trước, anh Điến đi sau nói lên
“Đồng chí Sự đi chậm lại để phía sau đi kịp”. Sau này vào chiến trường chính
tôi là người hay bị tụt hậu, lúc đó các anh em dân tộc lại trở về với núi rừng
nên họ vác nặng, đi nhanh khó ai bì kịp. Chúng tôi đến ga Ninh Bình khoảng 5
giờ chiều. Hồi đó ga Ninh Bình trống trải, xung quanh phố xá lèo tèo, trên sân còn một đơn vị bộ đội khác cũng đang
chờ tàu, họ đông lắm, có lẽ gấp nhiều lần đơn vị tôi. Các tiểu đội kiểm tra lại
quân số, phần lớn các anh em Ninh Bình đều được về thăm nhà, một số đã lục tục
tới, còn thiếu một vài anh. Anh Điến thật là thương và tin lính. Không biết tôi
nhớ có đúng không các anh Loát, Phượng, Thể trung đội 1, Sơn, Nguyện… đều được về. Gần đến giờ tàu chạy mà Loát, Phượng
và một vài người nữa chưa thấy đến. Cả đơn vị hồi hợp chờ đợi. Khi tàu chuyển
bánh thì mới thấy các anh chạy theo. Người trên tàu đỡ ba lô cho người ở dưới.
Cũng may tàu đi cũng chậm. Hú vía thế là anh em đều tề tựu đầy đủ. Lúc đó anh
Điến mới nở nụ cười thoải mái. Đại đội tôi lên gọn trên một toa và hình như
cũng lấn sang toa bạn một số người. Hoá ra là họ đi tới hơn cả tiểu đoàn, và
cũng trên đường ra chiến trường. Đêm đó sau khi chuyện trò râm ran chúng tôi
chìm trong giấc ngủ, vì đêm qua gần như
thức trắng. Khoảng 7 giờ sáng hôm sau ngày 15/04/1972 tàu tới gần Ga Vinh, đỗ lại giữa đường cách ga khoảng 5 km. Chúng
tôi được lệnh xuống tàu. Còn đơn vị bạn trên tàu vẫn đi tiếp. Chúng tôi tản vào
một xóm cách đường tàu khoảng 300 mét (và cả đường 1 vì đường bộ, đường sắt đi
kề nhau). Xóm này trống trải, phía sau là cái gò trống. Trưa đấy chúng tôi mua
củi của dân để nấu cơm. Cũng may trong túi anh em, ai cũng còn một ít tiền. Anh Phượng trung đội trưởng dặn cả trung đội,
nếu dân có hỏi: “đi vào hay đi ra” thì nói: “đi ngang”, để tránh dân hỏi xin đồ
đạc. Thế là qua một ngày chúng tôi tiến
ra chiến trường.
(Còn nữa)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét