Honngv: Nguyến Thành Sự là
CCB Toán – Lý K14 ĐHBK Hà Nội, là bạn học thời phổ thông với Nguyễn Quang Thạch
lớp Bán dẫn K14VT. Do ngày Mẹ của Thạch mất, blog k14vt đăng “Tin buồn”, Sự
ở Đà Nẵng đọc thấy nên qua blog k14vt mới liên lạc lại được với “cụ” Thạch
nhà mình (trước đó mất liên lạc). Và cũng từ đó mình và Sự còn trao đổi Email
vài lần. Lần này ông bạn Sự gởi ra bản “Nhớ lại một thời”, ghi lại vài ký ức thời
SV, thời lính … Nhân ngày 27/7 xin trân trọng giới thiệu cùng anh chị em k14VT
và xin cảm ơn sunguyenthanh.
Đây là một cuốn hồi ký (mà vì khiêm tốn bạn Sự gọi là Ký ức) dài 137 trang nên sẽ đăng thành nhiều kỳ. Mong mọi người chịu khó theo dõi để qua đó như về thăm lại Mái trường xưa - ĐHBK HN - nơi dạy ta "thành người", ôn lại 1 thời SV thời chiến vất vả mà lắm cái hay ..., cảm thông đời lính gian khổ khói lửa, nhớ lại 1 thời đã qua của chính mình cũng như của các đồng môn với mình. Phải chăng đó cũng là cách tri ân các bạn CCB nhân ngày TBLS.
Những
suy nghĩ ban đầuĐây là một cuốn hồi ký (mà vì khiêm tốn bạn Sự gọi là Ký ức) dài 137 trang nên sẽ đăng thành nhiều kỳ. Mong mọi người chịu khó theo dõi để qua đó như về thăm lại Mái trường xưa - ĐHBK HN - nơi dạy ta "thành người", ôn lại 1 thời SV thời chiến vất vả mà lắm cái hay ..., cảm thông đời lính gian khổ khói lửa, nhớ lại 1 thời đã qua của chính mình cũng như của các đồng môn với mình. Phải chăng đó cũng là cách tri ân các bạn CCB nhân ngày TBLS.
Nhớ lại đã một thời là một trong các phần hồi ức của tôi: Nguyến
Thành Sự cựu chiến binh A1 B1 C6 D371; viết để ôn lại những kỷ niệm đã một thời trong
quân ngũ, đồng thời cũng muốn để lại cho con cháu biết thời trai trẻ của tôi và
đồng đội, bạn bè.
Tôi
gửi những ký ức này tới các đồng đội, và bạn bè đọc có gì liên
quan đến các anh, mong có ý kiến đóng góp. Cũng biết đâu có ý gì đó giúp các
anh làm tư liệu trong việc làm kỷ yếu cho đơn vị.
Bây
giờ chúng ta ở tuổi chẳng còn gì để mất, có lẽ chỉ còn duy nhất những gì là kỷ
niệm. Trong anh em chắc cũng có người như tôi, chưa biết hết đầy đủ đại đội ta,
tiểu đoàn ta, đã gặt hái được những gì trong thời gian khổ ấy. Tôi rất mong anh
em cùng viết, nếu mỗi người nhớ và ghi
ra những gì còn đọng lại, nếu không thể biên
tập được thì ta gôm lại thành một, thế là ta lại là ta, hoà trong tình những người đồng đội. Chắc chuyện mỗi người sẽ có những
thú vị riêng
(Để không bị xê dịch các hình
vẽ tôi đã khoá để không chỉnh lý, các anh em có thể chép tài liệu ra, hoặc lưu
với tên khác, nếu có gì đóng góp bổ sung, anh em có thể sửa trên bản sao đó)
Ký
ức của tôi có các phần:
(muốn tới thẳng phần nào giữ phím CTRL
và kích chuột dòng dưới đây)
* Ở Hậu Cứ
NHỚ LẠI ĐÃ MỘT THỜI
Cứ nấn ná mãi đến nay tôi mới bình tâm ngồi ghi lại những kỷ niệm cái thời ác liệt đó; Thời của tuổi thanh xuân của tôi và những đồng đội đã tham gia vào cuộc chiến tranh chống Mỹ. Đáng lẽ kỷ niệm về ngày xa xưa ấy sẽ chìm trong ký ức của tôi mãi mãi, nhưng vài năm qua nó lại trỗi dậy khi các ngày lễ kỷ niệm sau 40 năm đi qua và cũng vì những sự kiện sau đây:
Cứ nấn ná mãi đến nay tôi mới bình tâm ngồi ghi lại những kỷ niệm cái thời ác liệt đó; Thời của tuổi thanh xuân của tôi và những đồng đội đã tham gia vào cuộc chiến tranh chống Mỹ. Đáng lẽ kỷ niệm về ngày xa xưa ấy sẽ chìm trong ký ức của tôi mãi mãi, nhưng vài năm qua nó lại trỗi dậy khi các ngày lễ kỷ niệm sau 40 năm đi qua và cũng vì những sự kiện sau đây:
Sau khi xuất ngũ trở về trường đại
học, tôi tốt nghiệp đại học vào năm 1979 và chuyển về quê hương, một thành phố
của miền Trung, những năm qua phải ngụp lặn với cuộc sống; các người thân lần
lượt ra đi, tưởng như một thời oanh liệt của tuổi thanh xuân sẽ chìm theo thời
gian. Hàng năm cứ đến ngày 22 tháng 12 cơ quan nơi tôi làm việc lại họp mặt các
cựu quân nhân, những ngày ấy tôi lại trở về với ký ức. Đã mấy lần tôi đã nghĩ
đi tìm đồng đội, nhưng loay hoay mãi không làm được. Rồi một dịp may đến một
cách ngẫu nhiên. Tháng 5 năm 2008 khi đi dự
đám cưới con anh Phan Huy Khánh là bạn tôi đồng thời cùng nhập ngũ và về
làm lính D371. Hôm đó Nguyễn Vũ Tiến ở
Huế cũng vào dự. Qua Nguyễn Vũ Tiến và
Khánh tôi đã gặp đươc anh Phúc C trưởng C3 của D371. Từ đó tôi biết anh Phúc
cũng công tác tại Đại học Đà Nẵng, và hiện là thành viên ban chấp hành hội cựu
chiến binh Thành Phố Đà Nẵng, và trưởng ban liên lạc cựu chiến bính Tiểu đoàn 371
tại Đà Nẵng. Anh Phúc cho tôi vài số điện thoại nữa của anh em 371. Lâu nay tôi
cứ nghĩ Khánh, và Tiến cũng như tôi mù tịt về đồng đội. Từ hôm ấy tôi dần dần
tìm được tới các anh. Năm 2011 tôi cũng cùng anh Phúc đi dự kỷ niệm 40 năm
thành lập Tiểu đoàn 371. Trước khi đi dự tôi háo hức bao nhiêu, thì lúc kết
thúc tôi thấy tiếc rẻ bấy nhiêu, vì thời gian gặp gỡ anh em đồng đội ngắn quá. Muốn
thăm lại Mỏ Chén, Bốt Lăn sau 40 năm ra
sao, nhưng cũng không tới đó được. Các
anh về dự còn thiếu nhiều quá, nhất là các anh em các Dân Tộc, các anh em Thanh
Hoá, Nghệ An.
Dù sao thì cuộc hội
ngộ đã cho tôi gặp được nhiều người, nhất là các anh trong các ban chỉ huy các đơn
vị, như anh Tuân, anh Châu, anh Sáng. Đồng thời cuộc gặp cũng đưa tôi nhớ lại về cuộc sống tại Mỏ Chén của 371 ta
trước đây. Cuộc gặp này càng thôi thúc ý định viết của tôi.
Đã lâu ngày quá trí nhớ đã cùn, nhất là những ngày tháng,
địa danh, về những sự kiện có cái nhớ rõ, có cái chỉ nhớ mang máng, có cái quên
nghĩ mãi không ra. Thậm chí tên của đồng đội cũng không nhớ hết. Các anh và các bạn đừng cười nhé. Trong những
ngày ác liệt đó tôi nhìn sự việc và hành động theo tầm nhìn của người lính, cấp trên đẫn đi đâu thì đi theo đó, bảo
làm gì thì làm vậy, không tìm hiểu sâu sa nên giờ đây chắc có những nhận xét không
chính xác, thậm chí có thể sai không đúng với thưc tế.
Để bắt đầu và củng cố trí nhớ tôi vào
Internet tìm lục tư liệu, bản đồ, các địa danh cũ đã từng đi qua, bây giờ có
cái không còn nữa, người ta đã đổi tên, mở đường làm thay đổi. Các tên gọi
trong bản đồ cũ có cái không còn. Có những vị trí tôi phải đối chiếu với các hình ảnh, các câu chuyện
còn lưu trong trí nhớ, kết hợp với bản đồ, các tài liệu để xác định. Có thể
những tình tiết viết ra chỉ để cho tôi ôn cố tri tân, chưa chắc đã hợp với ý
các đồng đội, các bậc chỉ huy, mong anh
em bỏ qua. Mạch nhớ đã tuôn trào tôi xin
bắt đầu khai bút!
Kỷ niệm
40 năm Thành lập tiểu đoàn 371 Pháo Binh
Gặp lại
các anh sau 38 năm xa cách
Lại đứng
bên anh Tiểu đoàn trưởng Lương Vũ Tuân sau 38 năm xa cách
Hội ngộ tại Hoà Lạc trong tình đồng đội sau 39 năm,
Tiểu đoàn 371 đã trở về từ các chiến trường
Phần 1
Những năm đầu Đại học (1969, 1970, 1971)
Tháng 9 năm 1969 là tháng cả nước đau buồn vì Bác Hồ đã ra
đi. Tôi tham gia làm lễ tang Bác tại địa phương nơi gia đình tôi sơ tán, vào
tuần đầu khi Bác mất. Mọi việc xong xuôi tôi tạm biệt ba mạ lên đường đến Đại
học Bách khoa, nhập học. Năm đó Đại học Bách Khoa Hà Nội tuyển sinh khoá thứ 14,
thế nên lứa chúng tôi được gọi là K14. Năm đó (1969) là năm cuối cùng các ban
tuyển sinh chỉ xét tuyển mà không thi tuyển. Đến năm 1970 lại tiếp tục tổ chức
thi Đại học, những năm này đề thi đại học khá khó. Tôi được gọi vào trường vào
đợt vét. Là con em cán bộ miền Nam,
nên hồ sơ xin vào đại học của tôi được chuyển về Bộ Giáo dục. Bộ phận tuyển
sinh là cơ sở 2 của Bộ Giáo dục, đóng gần lăng Hoàng Cao Khải ở phố Sơn Tây Hà Nội. Hồi
đó lăng Hoàng Cao Khải nằm sát bên đường, phia trong cỏ mọc nhiều, lăng có
những khối đá lớn xếp cao đến gần chục mét, cơ sở 2 của Bộ Giáo Dục nằm phía
sau. Tôi nhận giấy triệu tập tại đó, rồi đến trường Đại Học Bách Khoa trình
diện. Ngày 15/09/1969 nhà trường tập hợp
các tân sinh viên trước nhà A3
gần kề sân vận động Bách khoa đọc tên từng người và khoa sẽ được học. Vậy là sinh
viên vào trường rồi mới biết mình được học khoa nào; điều đó khác hẳn bây giờ. Thằng bạn cùng lớp
với tôi được về khoa Vô tuyến điện, chắc tương đương với khoa điện tử viễn
thông bây giờ; Ba nó là hiệu trưởng trường đào tạo cán bộ đi Nam thời đó; Còn tôi
được phân về khoa Toán Lý. Nói chung đây là một ngành mới, khi tìm hiểu về ngành
học các thầy nói: Lớp chúng tôi là lớp
toán công trình; Khoa tôi được thành lập vào năm 1968. Do mới hình thành nên
mỗi khoá được đào tạo theo mỗi kiểu; K11, K12
thì được gọi là lớp giáo viên, và số sinh viên 2 K này được chọn lọc từ
các khoa khác. Còn K13, K14 được tuyển
trực tiếp từ đầu vào, thế nên các giáo trình có lẽ cũng khác. Tài liệu học tập
ngành tôi học chưa có nhiều, và có thì cũng chưa ổn định, có thể thay đổi khác
nhau từng năm, các thầy thường tổng hợp
các tài liệu nước ngoài để làm giáo trình. Giáo trình để dạy ngoài một số ít
môn không phải toán thì đã có sẵn còn lại thì phải ghi chép. Nhà trường có 1 xưởng in phục vụ cho in giáo
trình.
Thời đó chúng tôi phải đọc tiếng Nga. Trừ sinh viên Ngoại
Ngữ ở trường Ngoại ngữ, chắc phần lớn
sinh viên các trường đại học đều học
tiếng Nga. Hồi đó tất cả các tài liệu tham khảo gần như duy nhất là tiếng Nga. Đối
với khoa Toán Lý thì từ năm thứ ba sẽ được học một năm Tiếng Anh, chắc để dùng đọc thêm tài
liệu bằng tiếng Anh. Hồi đó hầu như
chúng ta chưa có khái niệm nhập kỹ thuật của Anh, Mỹ?. Tất cả các hàng hoá vào
miền Bắc, đều từ hệ thống Xã Hội Chủ Nghĩa. Chúng tôi học tiếng Nga với yêu cầu trước hết
là để dịch, đọc hiểu tài liệu, sách,
giáo trình bằng Tiếng Nga, nên chủ yếu đi sâu vào phương pháp dịch sách.
Năm 1969 Đại học Bách Khoa Hà Nội bắt đầu chuyển từ nơi sơ
tán về. Nghe nói từ năm 1965 Đại học Bách Khoa Hà Nội sơ tán về Lạng Sơn và ở
trong rừng, có một số khoa sơ tán về các tỉnh quanh Hà Nội. Năm ấy thằng bạn
tôi vẫn phải về học tại nơi sơ tán ở Sài Sơn Hà Tây, sang năm thứ hai mới được
về học tại Hà nội. Khoa Toán lý có lẽ ít người nên năm đó được học luôn tại Hà
Nội. Năm 1969 Đại học Bách Khoa tuyển sinh nhiều lần. Anh Vũ Tiến vào sớm
(khoảng tháng 8/1969) nên có đi lao động tại Lạng Sơn, để chuyển vật liệu về Hà
Nội sửa chữa nhà cửa. Trong thời gian lao động có anh bên lớp Lý khoá tôi bị
rắn độc cắn phải nhờ các thầy thuốc người dân tộc cứu chữa.
(Trường Đại Học Bách Khoa
ngày nay , cũng “chẳng khác” khi xưa)
Những điều tôi mô tả ở đây tại thời điểm 1969-1979, còn sau
này Đại học Bách Khoa biến đổi thế nào
là tuỳ theo thời điểm chắc nó càng ngày càng đàng hoàng và khang trang hiện đại
hơn. Đại học Bách Khoa thời đó có 2 khu,
khu cũ và khu mới. Ở khu mới có các nhà do Liên Xô xậy dựng, rồi cũng
theo kiểu thiết kế đó Việt Vam xây thêm nhà C9, cái nhà mà nếu ai đi trên đường
Nam Bộ (nay là đoạn đường Giải Phóng gần Công Viên Thống Nhất) sẽ thấy cái cầu
thang nhìn ra đường. Trên cầu thang này thời đó, cứ mỗi khi giờ ra chơi sinh
viên ra nghỉ, đứng ngắm phố, nhìn người
đi lại, nhìn tàu điện leng keng đi, về, thấy thật thơ mộng và lạ lẫm. K14 chúng
tôi là những người mở hàng cho khu học
mới (có lẽ khu này cho đến nay vẫn đang được sử dụng và mở rộng). Hồi đó Đại Học
Bách Khoa có lẽ là nơi tập kết lưu học sinh chuẩn bị đi nước ngoài của Bộ Đại Học.
Rồi cũng là nơi các học sinh đi nước ngoài về dừng chân trước khi về gia đình
hoặc nhận công tác.
Trường Bách Khoa hồi
đó thật rộng. Khu mới có cổng hình
Parabol. Cổng này có lẽ là nét độc đáo của trường. Cho đến nay nó vẫn không bị
thay đổi. Bên trong có các nhà C1, thư viện C2 (nay hình như đã thay đổi bởi một
thư viện lớn hơn), hội trường C2, các nhà C3,C4, C5,C6,C7,C8, C9 (C10 mới xây
sau này?) cổng chính tại đường Đại Cồ Việt hồi đó đã có nhưng không mở (Cho đến
năm 1996 khi ra Hà Nội công tác thì tôi thấy cổng này đã mở). Ranh giới giữa
khu cũ và mới là con sông nhỏ đi từ công viên Thống Nhất (cái công viên này
cũng có thời đươc đổi tên là công viên Lê Nin sau lại lấy lại tên cũ) và đoạn sông Tô Lịch chảy từ sau khi giao nhau với sông nhỏ trên kéo về
tường rào giữa Đại học Bách Khoa và Đại học kinh tế Kế Hoạch (Nay là Đại học Kinh
Tế Quốc dân)
Tại khu cũ phía bắc có cổng Đại Cồ Việt, nay là đầu đường Tạ
Quang Bửu, nội trú sinh viên có các nhà 3 tầng là B3,B5,B6,B7,B8, B13 (bây giờ
trước nhà B13 đã được xây thêm nhà B10, B12, B1,B2) nằm bên bờ sông Tô Lịch, B7 Bis giành cho
sinh viên nước ngoài, các nhà cũ có nhà
71, 72, 73, 61,62,63…., Hội trường có nhà A, B,C, D, Nhà E, hội trường Lớn, Hội
trường 250, các nhà giáo viên độc thân A1 , A2, A3 , khu xưởng cơ khí, Nhà ăn
B4, nhà ăn 1-5, và còn vài nhà ăn khác nữa
Phía đông trong khu cũ có cổng “Bạch Mai”, đi ra phố Bạch
Mai. Hình như cổng này trước đây là ngõ
có tên là Giếng Luông. Cái tên này có lẽ ít ai biết đến, tôi
biết được do nghe lỏm được ai đó đã nói (hình như trong quyển Hà Nội 36 phố
phường, hay quyển nói về Hà Nội xưa gì đó, tìm trên mạng chưa thấy). Phía ngoài
cổng có trường cấp 3 Thăng Long, có bệnh viện Giao thông, sau này bệnh viện
chuyển đi nhiều nơi, Nay BV giao thông lại về bên cạnh Chùa Láng. Phía trong
cổng Bạch Mai có các dãy nhà dài dành cho nội trú của khoa Chế Tạo Máy, khoa Vô
Tuyến Điện. Ngày nay khu cũ đã được cắt ra nhiều phần. Sau 1975 khu gần cổng
Bạch Mai đến nhà A được giành để xây nhà tập thể cho giáo viên. Hồi đó ở gần khu vực này có một bộ phận của
Đài phát thanh Giải Phóng, cho đến cuối năm 1970 mới chuyển đi.
Đến nay trong khu mới trường mở rộng thêm về phía đối diện
nhà C1 qua con đường trục từ cổng Parabol. Trên khu này những năm 70-80 nó còn
đất để trống. Nhà trường đã xây thêm nhiều nhà bổ sung như theo bản đồ
Năm 2001 người ta mở đường
Lê Thanh Nghị cắt qua khu cũ nên nó có
những thay đổi theo bản đồ mới. Nói chung khuôn viên của trường không có gì
thay đổi lắm, các con sông chảy qua trường đã bị lấp. Người ta đặt tên cho các
con đường lớn đi trong trường, như Tạ Quang Bửu, Trần Đại Nghĩa, các khu nhà
60,61.. 71.,72.. đã được đổi tên. Trường cũng đã xây thêm nhiều nhà và giảng đường.
Năm Thứ Nhất
Mới vào học, nhà trường cho chúng tôi học
môn Quân sự. Lúc này sinh viên nam ở khu nhà trệt tại nhà 62, nữ thì về ở
khu nhà 3 tầng, chúng tôi ở chung cùng các anh khoá 11, nhà 63 là nhà các chị
khoá trên. Lớp học gồm 2 khoa: Toán Lý
và Điện. Toán Lý chúng tôi có 2 lớp chỉ khoảng 60 người, còn khoa Điện lên tới
trên 300 người.
Số sinh viên Toán lý có lẽ là ít nhất so với các khoa Chế tạo máy, Vô Tuyến.Điện, Hoá, Động
Lực, Kỹ Sư Kinh Tế. Nếu có cuộc thi thố gì như văn nghệ, thể thao thì khoa Toán
Lý phải huy động toàn lực, đôi khi phải nhờ đến cả các thầy cô trẻ. Một tháng
học, chúng tôi được đưa vào khuôn khổ như quân đội, các cán bộ lớp thành Trung
đội trưởng, Tiểu đội trưởng. Tuy nhiên qua lớp học quân sự tôi khoẻ lên nhiều,
các môn chính trị, bắn súng, đâm lê, ném
lựu đạn, lăn lê, bò, toài, đội ngũ đều được làm quen.
Năm 1968 Mỹ giới hạn ném bom Miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở vào
nên Hà Nội tạm thời vắng tiếng máy bay Mỹ, im tiếng bom đạn. Năm đó miền Nam đã có Chính phủ Cộng hoà miền Mam Việt Nam,
do bác Huỳnh Tấn Phát làm chủ tịch. Còn Bác Tôn Đức Thắng là chủ tịch nước sau
khi Bác Hồ mất. Sau khi học quân sự chúng tôi bắt đầu học văn hoá. Chúng tôi
lại chuyển về ở Nhà 73. Nhà 73 là dãy nhà bị đổ một phần, phần cũ tường vôi mái
ngói Fibro, nam lớp Toán chúng tôi ở tại đây, phần bị đổ được làm lại bởi tre
tranh, và cánh nam lớp Lý ở đó. Học kỳ 1 đang thời mùa đông nên chưa thấy điều
gì, sang mùa hè ban ngày nắng hầm qua ngói xuống phòng thì mới thấy nóng bức,
khó chịu
Sinh viên khoá tôi
có nhiều thành phần: học sinh phổ thông, học sinh chuyên toán, chuyên Lý, Hoá,
cán bộ đi học, những người từ lớp dự bị đại học của Đại học Bách Khoa (dự bị đại học là trường đại học mở 1 lớp ôn
luyên chương trình phổ thông cho các đối tượng chủ yếu là cán bộ, bộ đội; cuối
kỳ kiểm tra để tuyển vào đại học). Lớp tôi có nhiều anh là bộ đội chuyển ngành
đi học, phần lớn là thương binh, và nhiều anh ở bộ đội phòng không, nên vết
thương thường là do mảnh bom, và có mấy anh bị thương ở đầu, các anh đều mến
bọn trẻ chúng tôi.
Học kỳ một năm đầu chúng tôi ôn lại kiến thức toán phổ thông (ôn chỉ mỗi toán) và học một vài
môn chương trình đại học. Không biết các khoa khác có phải qua giai đoạn ôn này
không, hồi đó tôi cũng chẳng để ý. Trình độ chúng tôi ban đầu rất không đồng
đều, sau khi ôn lướt qua phần lý thuyết,
các thầy cho làm bài tập tại lớp; vì là lớp toán nên đề bài thường khó và được
lấy từ các đề thi học sinh giỏi, trong các tạp chí toán cho học sinh giỏi của
Liên Xô v.v.... Những đứa đã học chuyên
toán luôn giải chúng một cách nhanh chóng.
Đầu tiên tôi không rõ cứ nghĩ sao chúng nó giỏi thế. Cứ có ai xung phong
lên bảng giải bài tôi phải căng mắt theo rõi để tìm hiểu, đầu bung lên và thắc
mắc “không biết làm sao họ nghĩ ra nhanh thế, độc đáo thế?”. Sau mới vỡ
lẽ phần lớn các dạng bài này họ đã làm quen khi còn ở các trường chuyên. Ngày
qua ngày tôi và một số anh cũng quen và theo kịp.
Chúng tôi dần quen được với môi trường đại học. Mà giảng
đường đại học, nhất là của Đại học Bách Khoa sao mà rộng rãi khang trang vậy.
Từ bé đến giờ tôi mới được ngồi học trong những phòng học như thế này. Trước
đây tôi cũng chưa dám mơ mình sẽ được ngồi trong không gian học tập lý tưởng vậy.
Chẳng bù cho ngày nào, phải ngồi học trong góc chùa, góc đình làng, nhà thờ họ,
đầy những cột là cột, tối tăm khi còn học ở Vỡ lòng, Cấp một, Cấp hai ở làng
Phương Liệt trong lòng Hà Nội, (làng Phương Liệt gần đối diện ngõ vào T28 khu
tập thể anh Lại Văn Châu bây giờ, trên đường Trường Chinh). Cũng chẳng bù cho
những lúc phải ngồi trong các lán lớp học sơ tán trong núi rừng Lương Sơn, đang
học vắt bò vào lớp, trời hơi mưa là trong lớp tối xầm, bàn ghế cái gẫy chân,
cái lở góc. Khi trời lạnh, hai ba đứa chung 1 khúc củi khô đốt sưởi dưới ngăn bàn, mới đỡ cóng mà
viết bài, làm gì có đèn điện, quạt máy như nơi đây.
Các môn học mới thật hấp dẫn, nhưng cũng thật là khó như là môn Hình Hoạ; các anh bộ đội nói trệch ra
là “hành hạ”, nó đòi hỏi phải đầu tư rất nhiều thời gian và công sức, thậm chí
như đánh vật với nó, môn Cơ lý thuyết
thì nói : “lơ mơ như cơ lý thuyết”, vì nó mông lung, huyền ảo. Những kiến thức
cũ với quan điểm mới đã được khái quát và trừu tượng
Học Kỳ 1 năm đầu qua
đi, kết quả học tập của tôi cũng khả quan. Hồi đó Giáo dục đại học có một bộ
riêng có tên gọi “Bộ đại học và trung học chuyên nghiệp” do bác Tạ Quang Bửu
làm bộ trưởng. Văn phòng Bộ hồi đó ở gần Đại Sứ
quán Anh trên đường Lý Thường Kiệt, Quận Hoàn Kiếm Hà Nội. Phần lớn sinh
viên đều ở nội trú trong trường, nên giờ
giấc và kỷ luật học tập nghiêm lắm, đến giờ học và giờ ngủ không được làm mất
trật tự, cũng chính vì ở nội trú nên hiệu quả học tập rất cao. Ngày nay ở nội
trú chắc sẽ ảnh hưởng xấu nhiều đến kết quả học tập, vì nhiều lý do: ồn ào,
nhiều tác động, và sinh hoạt khó khăn?. Sau mấy tháng học tập chân trời kiến thức, và
tương lai phía trước trải rộng trước mắt chúng tôi. Bao nhiêu mới mẻ, kể cả về
kiến thức lẫn môi trường. Cứ chiều chiều chúng tôi lại ra phố, ngó nghiêng tìm
sách tìm vở; mua các nhu yếu phẩm. Hầu như chúng tôi có mặt thường xuyên trên
đường phố Bạch Mai, Bà Triệu, Phố Huế, Hàng Bài, Tràng Tiền, Bờ Hồ… Chúng tôi
thường cuốc bộ đi qua nhà Chứng Tích tội
ác của Mỹ trên phố Huế, Lê Văn Hưu, đã ném bom Hà nội năm 1967. Tội ác của Mỹ đã gieo xuống nhà tôi cũng vào
thời gian đó. Nhà tôi ở phố 8 gần Ngã Tư Vọng. Cả dãy phố 8 từ Xưởng Than đối
diện với chùa làng Phương Liệt, kéo dài xuống đoạn đối diện với ga Giáp Bát,
hồi đó đều là nhà tranh. Hè năm 1967 bom Mỹ đã làm cháy toàn bộ dãy phố. Bây
giờ Mỹ không ném bom từ Vĩ tuyến 20 trở ra nữa. Nhiều cơ quan đã chuyển về Hà
Nội, tuy nhiên không khí chiến tranh chưa hoàn toàn chấm dứt.
Mỗi tháng học bổng chúng tôi được 18 đồng và dùng đóng hết
vào tiền ăn. Chúng tôi ăn khoẻ lắm. Có
đứa từ sáng ăn một cái quẩy to, đến 8 giờ ăn hết 2 cái bánh mì 200g mà đến 10
giờ vẫn đánh sạch được hết 2 xuất cơm. Năm đầu tiên chúng tôi ăn cơm theo bếp
của khoa, mỗi khoa mỗi nhà ăn. Cơm hồi đó phải ăn độn chủ yếu là bánh mỳ. Tôi
còn nhớ một hôm nhà bếp phân công chúng tôi theo nhóm đến kỳ đi lấy bánh mỳ.
Chỗ lấy bánh cách trường khá xa, nó là con đường đất rẽ trên đường Trương Định. Ở đó họ có kho
chứa bánh như lò nướng gạch. Bánh xếp trên giá chồng lớp như hàng gạch. Gian
nhà kho chứa bánh lớn lắm. Có lẽ lò bánh
cung cấp cho cả khu Hai Bà Trưng cũng nên. Hồi đó hình như người ta không chú ý
nhiều đến vệ sinh, không biết số bánh kia, có chuột bọ gì leo trèo không. Thời
nay nếu còn loại kho kiểu này chắc sẽ được nêu lên đài, báo. Vệ sinh nhà bếp
cũng là cả vấn đề, lúc đầu bếp núc còn tạm bợ, cơm thì chứa trong nồi, nhưng
canh chia xong không có nắp đậy, mà được phủ bởi các miếng vải màn, lâu ngày bị
rách, bị tuột ra sau khi đậy. Có hôm khi ăn gần xong dưới đáy xoong canh, ruồi bị chết lắng xuống có thể xúc được
bằng nửa thìa cà phê. Cho đến học kỳ 2 khi nhà trường tổ chức thành bếp chung,
và có cơ sở đầy đủ điều kiện, nên vệ sinh mới cải thiện được tình hình. Tuy
nhiên cách phục vụ của nhân viên cũng chưa tốt lắm. Một hôm khi lấy nước sôi về
uống, chúng tôi thấy nước từ trong vòi ra chỉ hơi ấm, lúc đó có một cô phục vụ
mới bổ sung nước vào thùng, một sinh viên hỏi: “Nước hình như chưa sôi hả cô?”.
Cô ấy đáp: “Nước bốc hơi là sôi rồi”; Thật là một lý thuyết chỉ có mấy cô nhà
bếp mới có. Cánh sinh viên nhìn nhau hết nói.
Điều kiện học tập tại khu nội trú cũng có một số khó khăn.
Điện thường yếu, cứ vào đầu tối đến 10 giờ đêm là đèn tối hơn đèn dầu, nhất là
mùa đông; chủ yếu sinh viên nấu nước uống,
các bạn nữ thường phải tắm, rửa, gội đầu nên nấu nước tắm bằng “tàu
ngầm” (Nghĩa là dụng cụ nấu là 2 tấm sắt thường là lưỡi dao lam, hoặc miếng sắt
tây kẹp trên 2 rãnh của thanh tre nhỏ và nối vào 2 đầu dây ra tạo thành 1 tụ
điện). Có lần quá tải làm ở một số cột điện dây nóng đỏ như cây sắt nung trong
lò rèn. Hồi đó đèn tuýp không có mà chỉ dùng bóng tròn, nên càng tốn điện. Do
vậy buổi tối muốn học thì cách tốt nhất là ôm sách lên hội trường để học. Hội
trường ở khu mới điện mạnh lắm, hơn nữa theo thiết kế của Liên Xô một phòng
rộng khoảng 40 mét vuông đã có cả chục cái đèn tuýp, cả phòng có ít nhất 2 công
tắc, cứ bật 1 công tắc là nửa số bóng đó
sáng rực. Từ xa hàng cây số nếu các phòng học có bật đèn thì sẽ thấy phía Đại học
Bách Khoa sáng rực như trong phim nước ngoài
(Hình dáng của tôi những ngày đầu Đại Học)
Thấm thoắt học kỳ đầu tiên đời sinh viên của tôi cũng qua
đi. Tôi về ăn tết tại Lương Sơn Hoà Bình, ba mạ tôi vẫn còn sơ tán ở đó. Giao
thừa năm đó buồn vì từ đây không còn nghe thơ tết của Bác Hồ nữa. Sau nửa năm xa cách tôi lại gặp lại bạn cũ
thời học cấp 3; chúng tôi lại đến nhà nhau chúc tết, ăn uống, cứ hết nhà đứa nọ
lại đến nhà đứa kia, tuy nhiên vẫn thiếu một vài bạn; có đứa đã đi bộ đội, có
đứa đã về quê, hoặc không về Lương Sơn sơ tán nữa.
Ra tết, về trường
cả khoá chúng tôi đi lao động đắp đê sông Cầu một tháng. Sáng mùng 6 tết chúng
tôi đi tàu từ ga Hàng Cỏ (sau này đổi tên thành ga Hà nội lúc nào không biết)
lên ga Bắc Ninh, đi bộ lên cầu Thị Cầu và rẽ về phía Yên Dũng ở phía thượng
nguồn, theo đường đê đi 5 km nữa. Khoa tôi gồm 2 lớp Toán và Lý. Chúng tôi được
chia ở rải ra các nhà dân. Ở đây không khí tết vẫn còn nhiều, vì ở nông thôn ăn
tết khá dài, các gia đình vẫn còn bánh chưng, bánh ngọt, bánh nướng. Tôi ở vào
một nhà mới làm; nhà thì rộng, chủ nhà rất dễ chịu, hoà nhã, nhưng do cột nhà
mới làm bằng gỗ xoan ngâm chưa hết mùi, nên cứ vào nhà thì ngửi thấy mùi hôi
như đứng trong chuồng lợn, rất khó chịu. Trưởng đoàn (là cán bộ lớp) nói với
chúng tôi: “chúng ta phải lưu ý, ở quê họ không đánh răng bằng thuốc và bàn chải,
nên buổi sáng đánh răng đừng để bọt rơi vãi,
làm mất lòng chủ nhà”. Thời đấy ở đây họ cũng dùng hố xí 2 ngăn, nhưng ở
đây rất nhiều bọ chó. Bọ chó nhảy tí tách khắp nhà đốt nổi đỏ đầy người. Các
bạn nữ bị bọ chó rúc vào những chỗ hiểm,
da non đốt càng khổ.
Dù đã được làm quen với lao động nặng khi còn đi học nơi sơ
tán, nhưng công việc đắp đê thật vất vả, cường độ lao động cao. Chúng tôi làm
việc 8 giờ một ngày. Con trai thì đào, xúc, đẩy xe cải tiến chở đất, san, đầm.
Con gái thì cũng làm vài việc như vậy
nhưng nhẹ hơn. Có lẽ đào xúc là nhẹ hơn cả vì đẩy xe phải lên dốc, đất được lấy
từ chỗ xa chân đê đắp bù vào các ta ly của đê. Khi đắp càng lên cao thì phải
đưa xe lên dốc càng cao, dù cầm càng hay đẩy xe cũng rất vất vả. Việc đẩy xe
còn có thêm lực lượng tham gia đẩy hỗ trợ, được gọi là “hộ dốc”. Hộ dốc rất mệt
vì phải đẩy liên tiếp hết xe này đến xe khác. Công việc đầm cũng rất chối, có hai
cách đầm, đầm đôi và đầm đơn. Đầm đôi là hai người đứng nâng đầm là khúc gỗ
tròn có quai rồi thả xuống. Đầm đơn thì đầm với đầm gang có cán. Cả hai đều
phải giơ cao rồi dộng thật mạnh cho đất nén chặt nên tốn sức và đau tay lắm.
Vài ngày người ta lại đi kiểm tra độ nén một lần. Họ đóng một khung hình trụ
tròn như ống bơ sữa bò không đáy lên một chỗ đất đã đầm, mang chỗ đất nằm trong
ống về rang cho khô nước rồi cân, nếu khối lượng không đủ theo số đã biết là
không đạt yêu cầu. Bọn tôi được bổ sung bữa
ăn giữa ca 9 giờ sáng, mỗi người được một
bánh rán tương đối ngon và chất lượng. Thời đó được ăn bánh rán là hiếm lắm,
chiều cũng được ăn thêm loại gì đó.
Trong thời gian này tự nhiên tôi bị viêm tai giữa. Sau khi làm được vài ngày
tôi bị mệt và rất uể oải ngấy sốt cứ tưởng cúm nên xin nghỉ ở nhà (vì cứ sau
tết tôi hay bị cúm, và cả sau này cũng vậy). Y sĩ của trường khám và nói tôi bị
viêm tai.
Học kỳ 2 chúng tôi
bắt đầu vào học các môn chính thức. Tôi học môn thể dục không đều. Các môn chạy
nhảy thì tương đối khá, nhưng các môn xà
phải dùng đến cơ bắp tay thì lại rất kém, vì tay thư sinh yếu ớt, cứ đến tiết
học xà tôi rất vất vả, và lo sợ. Tôi
được làm quen các môn toán cao cấp; đại số, giải tích, tiếng Nga, nhưng Hoá lại
không học trong suốt các năm đại học. Hồi đó tiếng Nga sao thân thiện vậy,
chúng tôi đọc sách chuyên môn bằng tiếng Nga, sách toán chủ yếu bằng tiếng Nga,
các phương tiện học tập chủ yếu cũng của Nga, thậm chí say mê hát các bài hát Nga. Lúc này chân trời kiến thức rộng mở trước mắt
chúng tôi một cách rạng ngời. Đội ngũ thầy giáo giỏi đã tạo cho tôi thấy niềm
tin để chinh phục kiến thức mới, và nó đã thể hiện qua kết quả học tập của tôi.
Năm 1970 tình hình chiến sự tại miền Nam vẫn cứ diễn đều như bình
thường. Nhà trường cho sinh viên học tập và làm theo di chúc của Bác. Đặc biệt
chúng tôi được dự các diễn đàn nói về con người trí thức vừa Hồng vừa Chuyên.
Lãnh đạo nhà trường là bác Phạm Đồng Điện hiệu trưởng, và bác Nguyến Đức Thừa
hiệu phó. Bí thư đảng uỷ của trường là bác Bùi Nguyên Cát. Hồi đó lãnh đạo
trường có một số bác từ bộ đội chuyển sang.
Bác Cát nguyên là bộ đội của Trung đoàn Thủ Đô. Cả ba bác đều rất bình
dân. Phó chủ nhiệm khoa tôi là bác Ngô Tôn Chu trước khi về công tác ở trường
là thượng uý quân đội. Hồi đó tôi thấy ít có giáo sư. Các thầy của tôi phần lớn
là Phó tiến sĩ, Tiến sĩ, đứng giảng lý
thuyết thường là các thầy có học vị, cũng có một số thầy chưa có học vị nhưng
giỏi nên cũng được giảng lý thuyết, còn lại thì chữa bài tập, có thầy hàng chục
năm chỉ có chữa bài tập.
Mỗi khi đi qua phòng nghiên cứu khoa học, tôi thấy bảng tiêu
chuẩn các bậc của Phó tiến sỹ, Tiến sỹ. Tôi nhớ Tiến sỹ có đến vài bậc từ thấp
đến cao, căn cứ vào số các công trình được công bố, khả năng ngoại ngữ đi kèm,
bậc cao nhất là phải biết 2 ngoại ngữ và có thể nói giỏi một ngoại ngữ để giảng
bài hoặc trình bày các công trình khoa học trong các hội nghị quốc tế.
Các thầy của tôi là
những người có danh tiếng trong Bộ như
thầy Trưởng khoa: Nguyễn Đình Trí, thầy Nguyễn Văn Đạo (sau này là viện phó
Viện KH Việt nam) phó khoa, thầy Lương
Duyên Bình, thầy Thái Thanh Sơn (bạn của ba anh Phan Huy Khánh), thầy Vũ Đình
Cự (người làm trưởng nhóm phá bom từ trường ở Hải phòng năm 1972), thầy Dương
Thuỳ Vĩ, thầy Đỗ Mạnh Môn, thầy Đỗ Xuân Lôi, thầy Nguyễn Văn Ba…. Hồi đó trong
sinh viên có câu “Toán Trí, Lý Bình”, để nói lên hai người thầy giỏi đứng đầu 2
bộ môn Toán Lý. Thầy Tạ Văn Đĩnh sau này là người Việt Nam đầu tiên bảo vệ luân án Tiến Sĩ
trong nước. Thầy Đạo nghiêm lắm; trước khi chúng tôi vào học thầy tập hợp cả
khoá và tuyên bố rằng nhà trường cấm yêu đương trong khi học, nhất là hai năm đầu.
Sau này hàng năm tới ngày sát tết và vào sáng mùng năm tết là thầy Đạo cử người đi tới từng lớp học điểm
danh, ai vắng mặt thì coi chừng (nếu không có lý do). Tiếc thay thầy Đạo đã bị
mất do tại nạn giao thông năm 2006, khi tài năng đang sung mãn. Ngày nay các
thầy tôi đã ở tuổi bát tuần, hình ảnh các thầy được các bạn ghi lại trên
trang web
Lớp tôi có Tạ Mỹ Giang (đã nhiều lần các thầy bị nhầm tưởng là
con gái!) là con trai bác Tạ Mỹ Duật kiến trúc sư trưởng của thành phố Hà Nội,
sau này ở các Thành phố lớn người ta có
đặt tên đường mang tên bác ấy. Đà Nẵng ở Quận Sơn Trà cũng có đường mang tên
bác ấy. Giang đẹp trai, có chị là Tạ Mỹ Dung học ở K11 Chế Tạo Máy, và sau này
Giang cũng đi bộ đội. Nhà Giang ở Nguyễn Chế Nghĩa, một phố bé nhỏ đi từ đường Trần
Hưng Đạo sang đường Hàn Thuyên. Giang đã mấy lần đưa chúng tôi đến nhà chơi.
Nhà Giang rộng rãi. Giang dẫn chúng tôi vào phòng trưng bày các mô hình lăng
Bác đang trong thời gian xem xét chọn lựa. Lăng Bác bây giờ có lẽ là thể hiện
của một trong các mô hình đó, vì hồi đó tôi thấy trong nhà Giang có mô hình như
lăng thật bây giờ. Nói về lăng Bác, tôi lại nhớ sau khi đã ra quân, tôi thường
qua lại đường Đội Cấn, đúng thời điểm lăng Bác đang xây dựng. Người ta rào kín
cả một khoảng rộng, tất cả đầu các con đường vào khu vực lăng bấy giờ đều bịt
kín, suốt ngày suốt đêm có bộ đội liên
tục làm việc. Hình như bây giờ Giang vẫn ở phố Nguyễn Chế Nghĩa
Học kỳ 2 của năm học
thứ nhất gần qua, Vào cuối tháng 6 chúng tôi bắt đầu ôn thi. Cứ mỗi môn nhiều thì được 7 ngày để ôn, ít
thì chỉ có 4 ngày, toàn bộ thời gian thi mất khoảng 20 ngày, các môn thi mới
được nghỉ ôn và chiếm hệ số 1 các môn kiểm tra chiếm hệ số 0,5 và các thầy
thường cho kiểm tra viết vào tiết cuối cùng. Thi thường theo cách vấn đáp (trừ
thi các môn chính trị) và thầy cho điểm ngay. Sau này tôi còn gặp hình
thức thi cho giở tài liệu nữa. Cách thi này thì dễ và cũng khó. Sau khi bốc
đề thì, người thi tha hồ giở sách để chuẩn bị, khi lên vấn đáp (lúc dó thì
không còn sách nữa), mỗi chữ ghi ra thầy sẽ truy ý nghĩa, từ đục đến khăng,
khăng đến lỗ cứ thế rộng ra, anh nào giỏi mới làm tốt được kiểu thi này, còn
yếu thì không đến nỗi bị điểm kém, mà cũng không thể học tủ được. Mỗi sinh viên có một sổ điểm nộp cho thầy khi thi, sau vài ngày thầy ghi điểm và ký vào sổ rồi trả lại. Đầu tháng 8 năm 1970
chúng tôi được nghỉ hè. Kết quả học tập của tôi khá tốt. Một số môn tôi được
điểm tuyệt đối như Giải tích, Đại Số, Tiếng Nga. Năm đó Thủ tướng Phạm Văn Đồng
đã ký sắc lệnh gọi sinh viên vào phục vụ quân đội. Thế là khoá chúng tôi có một số anh em
nhập ngũ
(Còn nữa)
Ông cháu Ng. Thành Sự hôm nay.(do honngv thêm vào)
Thiéu chữ đã trong tiêu đề ông chủ ơi, chữ đã đắt lắm đấy, bao nhiêu suy nghĩ mới tìm được nó mà ông cắt mất
Trả lờiXóaXin lõi. Sửa ngay đây.
Xóa