Hai giờ sáng ngày 28 tháng 4, sau khi xem xét lại toàn bộ diễn
trình tác chiến ngày 27, Bộ tư lệnh chiến dịch hài lòng nhận thấy bộ đội ta
trên các hướng chiến dịch phát triển nhịp nhàng, ăn ý, hoàn thành được các mục
tiêu đã giao; tư tưởng tiến công liên tục không cho địch có thời gian hồi sức
là rất đúng với sự chỉ đạo của chiến dịch... Nhưng muốn đảm bảo đánh chắc
thắng, thắng nhanh, thắng giòn giã, ngay lúc này phải chỉ đạo cho các hướng
(đặc biệt là hướng Sư đoàn 308) phải trinh sát thật kỹ, luôn bám sát địch,
không để hoạt động nào của chúng thoát khỏi mắt ta. Đồng thời chỉ đạo Sư đoàn 308 tổ chức
lại các mũi bộ binh có thiết giáp yểm trợ đột phá ra đường 1 chốt giữ và phá sập cầu
Lai Phước.
Sư đoàn 304 khẩn trương đánh Ái Tử, Quảng Trị.
Sư đoàn 324 phải đánh phản kích thật tốt ở Cầu Nhùng, cầu Bến Đá,
chốt giữ chặt đường số 1,
kiên
quyết thực hiện tốt nhiệm vụ chia cắt chiến dịch.
5 giờ 30 phút ngày 28 tháng 4 năm 1972, cuộc tiến
công quy mô toàn diện của quân dân Quảng Trị vào sào huyệt địch bắt đầu. Mở màn
đợt 2 chiến dịch, pháo binh của ta ầm ầm nã đạn. Bốn cụm mục tiêu
Đông Hà - Ái Tử - La Vang, thị xã Quảng Trị chìm ngập trong biển lửa 6 giờ, các sư
đoàn bộ binh, các trung đoàn độc lập, có xe tăng, thiết giáp yểm trợ đồng loạt
mở cuộc tiến công.
Ở hướng Sư đoàn 304, tiếng súng bộ binh nổ ra sớm hơn
ít phút. Năm giờ, khi Trung đoàn 24 đang triển khai đội hình phát triển vào Ái
Tử thì một cụm địch hỗn hợp (cả bộ binh và xe tăng) chốt ở vòng ngoài phát hiện
được ta đã sổ súng. Tình huống đó không làm cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 24 lúng
túng. Như phương án đã vạch sẵn, trung đoàn cho một phân đội dựa theo bình độ
khuất vòng trái, nổ súng thu hút địch. Quân địch bị đánh, bất ngờ bộc lộ lực
lượng tổ chức phản công lại ta. Thế là "tổ con chuồn chuồn" đã bị lộ.
Mười hai xe tăng địch và nhiều bộ binh bám theo dàn hàng ngang hùng hổ xông
thẳng vào đội hình tiến công của ta. Đúng như kế hoạch hiệp đồng, 2 tiểu đội tên lửa chống tăng B72 được
lệnh phát hỏa. Sáu chiếc xe tăng M48 kềnh càng kiêu ngạo của địch lập tức
bị bốc cháy. Những chiếc còn lại khiếp sợ "đạn có mắt” vội vàng quay đầu
tháo chạy. Bộ binh và xe tăng ta xung phong truy diệt toàn bộ xe tăng và bộ
binh lữ đoàn 258 bám theo. Cùng lúc, Trung đoàn 48, sau khi tiêu diệt căn cứ
Tân Vĩnh (ngày 27 tháng 4) đã nhanh chóng xốc lại đội hình phối hợp cùng Sư
đoàn 304 tiến công vào Ái Tử. Trung đoàn chia làm hai mũi, một mũi phát triển
xuống nam Tân Vĩnh hỗ trợ lực lượng vũ trang địa phương diệt ác, phá kìm giải
phóng hai xã Triệu Giang,Triệu Ái (Triệu Phong), một mũi tiến xuống nam cầu Lai
Phước đè bẹp các ổ kháng cự trên đường rồi thọc thẳng ra sân bay.
12 giờ trưa, hai trung đoàn 24 và
48 được sự yểm trợ đắc lực của xe tăng, thiết giáp mở nhiều cuộc tiến công vào
quân địch cố thủ ở sân bay Ái Tử. Địch chống trả điên cuồng, quyết sống chết
với ta. Nhiều trận đánh đẫm máu để giành giật từng đoạn hào, từng lô cốt đã
diễn ra. Đến 17 giờ 30 phút ta mới chiếm được hơn nửa sân bay. Nhưng quân số
hao hụt, đạn dược cạn dần, quân ta phải tạm dừng củng cố, bổ sung rồi mới đánh
tiếp.
Ở mũi thọc sâu của Trung đoàn 66
tình hình diễn ra còn phức tạp hơn nhiều. Sau một đêm hành quân vượt qua 23 km
mệt mỏi căng thẳng, trung đoàn đã đến nam cầu Quảng Trị triển khai trận địa
thực hiện chốt chặn đường 1. Nhưng quân địch ở đây phòng bị rất chặt chẽ. Ngay
từ phút đầu quân ta đặt chân đến, chúng đã phát hiện ra và gọi phi pháo đánh
chặn rồi phản kích mạnh mẽ quyết đánh bật trung đoàn ra khỏi khu vực Cầu. Tình
huống ngày càng phức tạp. Trung đoàn phó Đinh Xuân Nguyên và Chính ủy Nguyễn
Van Tời vừa chỉ huy đơn vị lợi dụng địa hình địa vật tổ chức bám trụ phản kích
địch, vừa gọi pháo binh chiến dịch bắn mạnh vào hai khu vực đầu cầu phía bắc và
phía nam yểm trợ cho quân ta xoay chuyển tình thế phát triển tiến công. Đến 8
giờ sáng, Trung đoàn phó Nguyên tập trung bộ đội đột phá quân địch chốt giữ ga
Quảng Trị. Bị đánh bất ngờ, địch núng thế, chống cự yếu ớt rồi lùi ra đường 1.
Tận dụng thời cơ thuận lợi, mũi đột phá phía bắc ào lên đánh địch chốt giữ đầu
cầu. 12 giờ trưa, Trung đoàn 66 cơ bản làm chủ mục tiêu phía nam cầu và lập tức
chuyển sang đánh địch giải tỏa đường 1. Việc đưa Trung đoàn 66 vượt sông Thạch
Hãn đánh chiếm phía tây thị xã Quảng Trị không chỉ tạo thế chốt chặn chiến dịch
đường rút chạy của địch từ Đông Hà - Ái Tử mà còn trực tiếp uy hiếp sở chỉ huy
sư đoàn 3 và cố vấn Mỹ ở thị xã Quảng Trị.
Trên hướng chú yếu chiến dịch do Sư đoàn 308 đảm nhiệm, 5 giờ 30
phút ngày 28 tháng 4, pháo chiến dịch mới chuyển làn, cả sư đoàn bộ binh và
thiết giáp phối thuộc đã đồng loạt tiến công. Trung đoàn 102 ở hướng nam, chia
làm hai mũi đánh thẳng ra đường 1 , đánh chiếm cầu Lai Phước chia cắt đội hình
địch. Địch dùng xe tăng, thiết giáp phản kích quyết liệt giữ cầu. Tiểu đoàn 7
và tiểu đoàn 9 tập trung súng chống tăng các loại bắn phá diệt 3 xe tăng, 2 ổ
đại liên. Phần lớn xe tăng, thiết giáp địch lợi dụng độ cao của đường sắt làm
vật che khuất nhô tháp pháo khống chế xe tăng, bộ binh ta. Trung đoàn 102 buộc
phải dừng lại điều chỉnh đội hình tác chiến, nên tốc độ phát triển rất chậm.
Hướng Trung đoàn 88, được sự chi
viện đắc lực của xe tăng, quân ta tổ chức thành nhiều mũi xung phong đánh chiếm
Trung Chỉ, địch không chống cự nổi tháo chạy về Đại Áng. Trong khi đó, Trung
đoàn 36 ở hướng bắc thọc thẳng theo đường 1 tràn vào các đường phố Đông Hà.
Địch chống cự yếu ớt rồi tháo chạy thục mạng.
8 giờ 30 phút, thông qua sự phát triển chung của chiến dịch, đặc biệt là của Sư đoàn 308, Bộ tư lệnh chiến dịch nhận định: Quân địch ở Quảng Trị thất bại đã rõ ràng, vấn đề chỉ còn là thời gian. Nhưng để tiêu diệt gọn, bắt tù binh, thu vũ khí, các cánh quân cần bảo vệ vững chắc mục tiêu đã giành được, đánh phản kích tốt, kiên quyết không cho địch ứng cứu lẫn nhau. Sư đoàn 308 phải nhanh chóng cắt đứt cầu Lai Phước. Các hướng cần chú ý sự đột biến tan vỡ của địch.
8 giờ 30 phút, thông qua sự phát triển chung của chiến dịch, đặc biệt là của Sư đoàn 308, Bộ tư lệnh chiến dịch nhận định: Quân địch ở Quảng Trị thất bại đã rõ ràng, vấn đề chỉ còn là thời gian. Nhưng để tiêu diệt gọn, bắt tù binh, thu vũ khí, các cánh quân cần bảo vệ vững chắc mục tiêu đã giành được, đánh phản kích tốt, kiên quyết không cho địch ứng cứu lẫn nhau. Sư đoàn 308 phải nhanh chóng cắt đứt cầu Lai Phước. Các hướng cần chú ý sự đột biến tan vỡ của địch.
10 giờ, pháo binh chiến dịch và
pháo binh Sư đoàn 308 bắn phá mãnh liệt khu vực cầu Lai Phước. Pháo vừa dứt, bộ
binh và cơ giới của Trung đoàn 102 bất chấp sự chống cự của đích, ồ ạt phát
triển qua đường sắt chiếm ven sông, khống chế hai đầu cầu, bắn cháy một lúc 3
xe tăng địch. Thấy nguy cơ mất cầu Lai Phước - một cây cầu sinh tử đối với địch
ở Đông Hà, bọn bảo vệ cầu dồn sức phản kích quyết liệt khống chế mọi hành động
của bộ đội. "Phải tiêu diệt ngay chiếc xe tăng địch cách cầu ba mét",
trung đội trưởng Dũng thét lớn. Chiến sĩ Bùi Minh Quyết bật dậy xông thẳng vào
gần chiếc xe tăng siết cò súng. Chiếc xe tăng trúng đạn bốc cháy, nhưng sau đó
Quyết trúng đạn hy sinh cách xe có hơn mười mét.
Dựa thời cơ thuận lợi, công binh
vượt lên đặt khối thuốc nổ vào giữa cây cầu. Chỉ trong chốc lát, 120 kg thuốc
nổ đã liên kết xong. Hoàng Xuân Lạng điểm hoả. Nhưng khối bộc phá không nổ do
nụ xoè bị gãy núm, dây chuyền lửa bị ẩm mất tác dụng gây nổ. Lạng lại lao lên
mặt cầu cặp trái lựu đạn vào khối thuốc nổ, giật nụ xòe rồi quay về đầu cầu.
Một tiếng nổ long trời chuyển đất phá tung một lỗ thủng lớn đường kính tới 4mn.
phá hủy cầu Lai Phước.
Cầu Lai Phước bị cắt đứt như một
tiếng chuông báo hiệu giờ cáo chung của căn cứ Đông Hà, đồng thời như một tiếng
sét rung chuyển làm bủn rủn quân ngụy khi chúng nhận được tin này. Sư đoàn 308
phấn chấn hẳn lên, lao vào trận đột phá cuối cùng.
Trung đoàn 36 ở phía bắc cưỡi xe
tăng theo đường 1 hò reo tràn xuống phía nam. Trung đoàn 102 ở phía nam đánh
ngược trở lại. Trung đoàn 88 ở phía tây ép xuống. Toàn bộ quân địch ở Đông Hà
hoang mang cực độ bỏ xe cộ khí giới chạy thoát thân. Chúng xông vào các xóm
làng ven đường, ven sông tranh cướp quần áo, lột xác làm dân sự. Chúng lao bừa
ra sông Thạch Hãn tranh cướp thuyền ghe để vượt sông chạy vào thị xã Quảng Trị.
Trên trời máy bay Mỹ quần đảo gầm thét chứng kiến cảnh thê lương của đội quân
tay sai. Dưới đất quân ta cưỡi chiến xa xông tới gọi hàng, bắt giữ hàng trăm
tên. Hàng trăm tên khác liều mạng vượt sông, thuyền đắm, ghe tan bỏ mạng giữa
sông đục ngầu, sùi bọt.
Đến 15 giờ 30 phút ngày 28 tháng 4, toàn bộ Đông Hà - Lai Phước được
giải phóng. Chiến thắng Đông Hà - Lai Phước làm nức lòng đồng bào, chiến sĩ Mặt
trận Trị - Thiên.
Chiến thắng Đông Hà - Lại Phước
càng thôi thúc cán bộ, chiến sĩ Sư
đoàn 304 khẩn trương chuẩn bị lao vào trận đánh ở cụm cứ điểm Ái Tử.
Sáng ngày 30 tháng 4, sau đợt pháo bắn phá hỏa
điểm địch, hai trung đoàn 24 và 48 được xe tăng thiết giáp yểm trợ đánh tràn
qua sân bay, xông thẳng vào căn cứ Ái Tử chiếm kho xăng và sở chỉ huy sư đoàn
3. Địch ở đây không còn hồn vía nào nghĩ đến chuyện chống đỡ, phá chạy về bến
phà Tả Kiên tranh nhau bè chuối vượt sông về thị xã Quảng Trị. Đến 14 giờ ngày
30 tháng 4, ta làm chủ căn cứ Ái Tử.
Trong lúc các sư đoàn 308, 304 và
nhiều trung đoàn chủ lực Mặt trận tiến công giải phóng Đông Hà - Ái Tử thì ở
hướng đông Trung đoàn 27, tiểu đoàn 47, tiểu đoàn 3 (lữ đoàn 202), tiểu đoàn
pháo binh 75 và hàng trăm cán bộ quân dân chính địa phương cũng lao vào trận
đánh. Ngày 28 tháng 4, được bà con cô bác huyện Do Linh và một số xã phía bắc
huyện Triệu Phong dùng thuyền đưa sang sông, cán bộ chiến sĩ các đơn vị nhanh
chóng đánh chiếm Long Quang, Thanh Hội, Vĩnh Hồ. . .
Thừa thắng, quân ta phát triển đánh
chiếm các mục tiêu nằm rải rác dọc đồng bằng ven biển hai huyện Triệu Phong,
Hải Lăng. Quân ta đi đến đâu cũng được nhân dân phấn khởi chào đón và phối hợp
đấu tranh chính trị, binh vận tới đó. Khi được tin Đông Hà - Ái Tử được giải
phóng, Trung đoàn 27 và các lực lượng vũ trang địa phương náo nức chuẩn bị tiến
công hệ thống đồn bốt kìm kẹp hơn 10.000 dân ở khu Gia Đẳng. Hàng nghìn bà con
cô bác các xã lân cận đốt đuốc, gõ mõ, đánh trống reo hò ủng hộ. Khí thế đấu
tranh trào dâng như nước vỡ bờ. Chiều ngày 28 tháng 4 khu tập trung Gia Đẳng
được giải phóng thì ngày 29 tháng 4, chi khu quân sự Triệu Phong đầu hàng. Ngày
30 tháng 4, địch ở Linh Chiều, Phương Lang bỏ chạy. Sáng ngày 2 tháng 5 ta diệt nốt chi khu quân sự Hải Lăng.
Đông Hà, Ái Tử, Hải Lăng bị mất, đường số 1 bị cắt đứt nhiều đoạn từ Cầu Nhùng
đi Mỹ Chánh. Thấy không còn khả năng chống cự, chỉ huy địch ở Quảng Trị quyết
định "rút lui có kế hoạch". Nắm được ý đồ của địch. Bộ tư lệnh Mặt
trận đôn đốc Sư đoàn 324 khẩn trương xốc lại đội hình chia cắt chiến dịch, kiên
quyết không cho địch bảo toàn lực lượng khi rút chạy.
5 giờ 30 phút ngày 29 tháng 4, Trung
đoàn 1 sử dụng tiểu đoàn 3 tiến công đại đội biệt động quân chấn giữ Cầu Nhùng,
diệt 25 tên, phá hủy cầu. 10 giờ địch cho 2 đại đội bảo an từ Thượng Xá
phản kích chiếm lại Cầu Nhùng. Một lần nữa, tiểu đoàn 3 lại đánh thiệt hại nặng
2 đại đội, buộc chúng quay về vị trí cũ. Để nối thông con đường sinh tử, 13 giờ
chiều cùng ngày, địch cho 1 tiểu đoàn biệt động quân có 8 xe tăng, thiết giáp
yểm trợ từ Long Hưng vào "chiếm bằng được Cầu Nhùng”. Cán bộ, chiến sĩ
Trung đoàn 1 vượt qua ác liệt của bom đạn bám trụ kiên cường đánh bại đợt phản
kích của địch, thiêu cháy 6 xe tăng và xe bọc thép M113.
Ngày 30 tháng 4, Trung đoàn 2 cho 2
tiểu đoàn 5 và 6 tiến công tiểu đoàn 8 lữ đoàn lính thủy đánh bộ 369 ngụy ở khu
vực Tân Điền, mở cửa cho tiểu đoàn 4 đánh địch ở cầu Bến Đá . . .
Ngày 1 tháng 5, thấy Đông Hà, Ái Tử thất thủ, địch ở
thị xã Quảng Trị hoang mang cực độ, bắt đầu "rút chạy có kế hoạch". Đó là một ngày cả Sư đoàn 324 chiến đấu dữ dội, ác liệt nhất và gây
cho địch nỗi kinh hoàng nhất. Suốt cả ngày địch mở hàng chục
đợt tiến công để khai thông đường. Nhưng địch đi đến đâu cũng bị đánh, chạy ngả
nào cũng bị chặn. Cả đoạn đường gần 30 km từ thị xã Quảng Trị đến Mỹ Chánh trở thành
đoạn đường máu, trở thành "Đại lộ kinh hoàng” đối với quân ngụy.
Đến ngày 2 tháng 5 năm 1972, tỉnh Quảng Trị hoàn toàn được
giải phóng.
Như vậy sau hơn một tháng (30-3 đến
3-5-1972) quân và dân Quảng Trị vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, ác liệt, hy
sinh, đánh hàng trăm trận lớn nhỏ, diệt và làm bị thương 14.350 tên địch, bắt
3.160 tên; thu, phá hủy 1.870 xe quân sự (có gần 600 xe tăng, thiết giáp) 419
khẩu pháo; bắn rơi, phá hủy 340 máy bay và rất nhiều quân trang quân dụng các
loại.
Như vậy điểm lại mấy ngày vừa qua :
Ngày 23/4 B3 C6 và và C15 đã vào trận
và lập công,
Ngày 27/4 B3 lại lập
công
Ngày 28/4 B2 lập công
Ngày 29/4 B2 lập công
Tôi
chưa có điều kiện để hỏi lại các anh B2, B3 và các anh lãnh đạo đại đội chi
tiết về thời điểm này. Nhưng có một vài điểm có vẻ cần xem lại lý do. Theo nội
dung mà đoạn truyện đã nêu thì B3 đi phối thuộc với 308, vậy đánh Ái Tử 308
không đánh, nhưng theo nội dung thành tích (đăng trên báo) của anh Chu Trọng
Cát thì anh (B3) có tham gia đánh Ái Tử,
B1
chúng tôi nghe anh em ở trận địa về nói có bắn cháy 3 chiếc ô tô và do Duy thực
hiện, Vậy là chỉ có mấy ngày, các anh em B2, B3 lập được nhiều chiến công lớn.
Sư 324 chiến đấu cũng rất kiên cường và vất vả, với nhiệm vụ chặn viện, đánh
địch trên đường 1, cầu Nhùng. Nhưng chúng tôi không có dịp ghi công, vì ở cánh
này hình như có ít tăng thiết giáp?. Nếu trận địa của chúng tôi thấy rõ chắc
cũng sẽ lập được công. Thông tin về đại lộ kinh hoàng sau này tôi mới nghe, và
có nhiều loại tin khác nhau. Lúc đó chúng tôi chỉ biết địch đang tháo chạy.
Ngày nay qua các tài liệu tôi mới biết hồi đó Sư 324 phải vất vả. Vậy sự kiện
đoàn xe ùn tắc đúng vào ngày 1/5/1972
Ngày
2/5 Quảng Trị được giải phóng, lúc này trung đội tôi mới được lệnh thu quân vào
sau ngày biết tin xe địch ùn tắc vài hôm, có lẽ vào ngày 3 hoặc 4 tháng năm
1972. Trung đội tôi rút về đóng tại vị
trí phía nam Động Ông Do khoảng hai giờ
đi bộ (chắc khoảng 5-7 km đường chim bay, bên cạnh dòng suối. Ở đây đã có hầm
kèo làm sẵn. Chắc là do anh em Sư 324 đã làm. Hầm tôi có Tỷ, Hùng và tôi. Nghỉ
được một ngày Tôi và một số anh trong trung đội được cử đi lấy gạo. Tôi khát
nước cứ lấy mũ cối múc đại, rồi đưa lên vục đầu uống. Vì bi đông đựng nước mà
hoà viên thuốc diệt trùng vào hôi lắm, uống rất khó chịu, nên từ đó về sau, tôi
chỉ đổ nước suối vào bi đông uống. Lúc đầu chúng tôi đi dọc theo con suối, nước
suối rất trong, đi một đoan xa mới lên bờ theo đường mòn. Bắt đầu tôi đã thấy
cái khó của lội suối lên bờ rồi, các anh đi trước dép ướt làm đường ven suối
đất trơn, thế nên anh đi sau, bi trơn, dép tuột. Địa điểm lấy gạo cũng gần nên đi khoảng một tiếng rưỡi là tôi đã tới nơi. Khi đi về
chúng tôi được hướng dẫn đi đường khác không phải lội suối, và gần hơn, vòng
theo con đường mòn cách Động Ông Do khoảng 1 km đường chim bay, đường đi theo một
hình vòng cung, Đi con đường này ở trên cao nên chúng tôi thấy vị trí đóng quân
của chúng tôi ở khu rừng phía dưới. Trên trời VO10 và F4 vẫn vo ve, ầm ầm quần
đảo. Đang trên đỉnh dốc và đoạn chuẩn bị xuống dốc, thì đột nhiên tôi ngửi thấy
mùi rất khó chịu một số anh em nói, có thể là địch rải thuốc độc hoá học. Mọi
người nói tôi dấp nước khăn mặt ướt rồi bịt lên mũi, đi khoảng 15 phút mới thấy
hết mùi. Cũng may chiều của gió thổi chếch sang hướng khác, chúng tôi chỉ bị
thoáng qua. Khi về tới hậu cứ thì lại nghe anh em kể có chuyện lạ hơn. Khi
chúng tôi đi vắng. anh Hùng ở hầm tôi,
anh Đạo ở hầm của A2 đang đứng phơi quần áo sau khi giặt, thì một toán tàn binh
quân Nguỵ đầy đủ súng ống đi theo hướng về của tôi, qua mặt 2 anh, và cứ im
lặng đi theo đường xuống suối, cả hai anh bị bất ngờ và trong tay chẳng có vũ
khí. Thế là cả hai bên cứ im lặng nhìn nhau, địch thì đi, ta thì đứng. Hôm đó anh
Thành còn thông báo, tàn quân Nguỵ không dám chạy trên đường 1, sợ bị bắt hoặc
bị tiêu diệt, nên tản vào trong rừng đi thành từng đoàn từng tốp. Các anh em
trong trung đội tôi tình cờ gặp phải trường hợp này. Ở vị trị này khoảng 2 ngày
chúng tôi được lệnh rút vào sâu hơn, không ở sát ven suối. Chỗ đóng quân mới
nằm trên lưng chừng đồi. Hầm của tôi phía trước có một nền phẳng. có lẽ nơi đây
trước kia có Phẫu hoặc, lính Nguỵ đã đóng quân, vì tôi thấy có nhiều thứ họ bỏ
lại. Nào là ống truyền dịch, vỏ hộp dầu đậu nành, dầu xà lách. Thậm chí có cả
ảnh một cô gái còn trẻ, để trong túi nilon ở phía sau ghi “Em chỉ đẹp khi được
nâng niu chìu chuộng”, vậy đây là ảnh của một lính Nguỵ nào đó. Ngoài ra tôi
còn thấy vài ống phóng tín hiệu. Tôi tò mò tháo ra, ở trong là một cái dù nhỏ
như cái khăn mùi xoa và liều cháy. Cái vỏ ống phóng này tôi đã thấy mấy anh bộ
binh làm điếu cày nhét bên ba lô mấy hôm nay. Anh em trong trung đội sang các đơn vị bộ binh đã xin được một số
chiến lợi phẩm mang về dùng, như thuốc Bassto quân tiếp vụ, vẽ anh lính cầm
súng, hình hai bàn tay Mỹ Việt bắt tay nhau trên bao thuốc, rồi Rubi Queen v.v…,
hồi đó tôi chưa nghiện thuốc nên không để ý, các anh mang về cá hộp, giò 3 lát,
cơm sấy. Cái khoản lân la nghe ngóng, xin xỏ các anh lính Ninh Bình thật là
giỏi, Phượng, Thể, Loát, Tráng thường mang về các thông tin do thông tấn xã
truyền mồn về trung đội. Nghe nói các đơn vị bộ binh phát đồ ăn thức uống chiến
lợi phẩm cho bộ đội, nhưng B72 chúng tôi chỉ đi xin lại chứ chẳng thấy cấp phát
gì cả. Rồi cũng nghe nói, tại Đông Hà,
Quảng Trị, quân ta đã vào được một ngân hàng, lấy được hàng thùng tiền VNCH. Ở
đây được một hôm chúng tôi lại nghe nói một sự kiện hy hữu quân ta đánh quân
mình. Câu chuyện được thuật lại như sau: Theo kế hoạch hợp đồng tác chiến vào 4
giờ sáng ngày đầu tháng năm tôi không nhớ rõ, bộ binh ta phối hợp với xe tăng truy
kích địch. Để tránh nhầm tăng ta và tăng địch, xe tăng sẽ hành tiến đi bên phía tây
đường 1, bộ binh sẽ theo sau. Nhưng trong khi hành tiến, trời còn đang
tối 2 bên không nhìn thấy nhau, có mấy xe tăng không biểt hăng hái thế nào “quên”
cả ám hiệu quy ước, đi sang phía đông đường 1, bộ binh tưởng xe tăng địch đang
rút chạy, nên dùng B40, hay B41 gì đó bắn đứt xích 3 xe tăng ta, lính xe tăng
đêm tối không thấy đường, tưởng lính
Nguỵ bắn, nên nhảy ra khỏi xe đánh giáp lá cà, trong khí vật nhau, rút dao găm
định đâm, thì lính xe tăng nhận thấy ánh hình giao găm của ta nên hô hoán hỏi nhau. thế
là nhận ra sự nhầm lẫn, vậy là cuộc đụng độ bất đắc dĩ xuýt xảy ra vụ đâm chém. Cũng từ đây không có
lịch, không có sự kiện lớn để đối chiếu các hoạt động của chúng tôi . Trung đội
1 chúng tôi ở đây vài ngày lại được tới vị trí mới. Vị trí mới chúng tôi đóng
quân nằm kề một đường lớn núp dưới bóng cây. Và cũng gần một con suối lớn.
chúng tôi ở gần một kho hậu cần, trong đó có một hầm chứa đầy rađiô đủ loại
chắc là chiến lợi phẩm đã thu được của địch. Hình như đây là một đơn vị hay một
bộ phận thông tin, ở xa tôi cứ thấy tiếng tý tách, xẹt xẹt. Lại nghe nói có cả
lính cơ yếu nữa. Mọi người nói, hầm thông tin và có lính cơ yếu là chỗ đó độ cơ mật khá cao. Người
ngoài không ai được vào, kể cả cấp trên. Vì vậy thấy kho radiô nhiều thế mà
chúng tôi không dám vào xin, mặc dù rất muốn có một cái để nghe tin tức.
Ở đây gần suối lớn nên lính thường dùng thuốc
nổ, hoặc lựu đạn mỏ vịt lấy được của địch để đánh cá. Tôi đã trực tiếp thấy anh
em trong B đi đánh cá. Ở vị trí đánh là một vùng suối sâu, sau khi thấy bộc phá
nổ chẳng thấy cá lớn đâu cả, chỉ thấy
vài con cá nhỏ nổi lên. Những lính có kinh nghiệm nói: thế là cá nghe động đã
chui vào hang, có con chết nhưng chìm ở dưới đáy suối phải lặn xuống mò mới bắt
được. Cảnh đánh cá này bị anh Thành mắng
cho một trận, vì dễ lộ nơi đóng quân, và đã nghe có anh dùng lựu đạn mỏ vịt nổ tức thì
(địch dùng để cài bẫy), khi ném lựu đạn rời khỏi tay là nổ nên đã tử vong. Có
anh khi đánh thuốc nổ muốn thuốc nổ khi chạm mặt nước là nổ để cá không kịp bỏ
chạy, nên để dây cháy chậm ngắn cũng sinh tai nạn. Còn trường hợp nữa, lính thường
đánh cá vào buổi trưa nắng, khi đã châm dây cháy chậm, do trời nắng dây cháy
chậm đã bắt lửa, nhưng không nhìn thấy khói, cứ tưởng dây chưa cháy thì cũng bị
thuốc nổ nổ ngay trên tay.
Như
vậy kể từ hôm ở Thượng Nguyên đến nơi này đã đã được khoảng 10 ngày, và chúng
tôi xa đại đội cũng đã hơn 20 ngày. Sau khi ở đây được vài ngày, một hôm anh
Phượng gặp tôi và nói: Trung đội cử tôi về hậu cứ đại đội để nạp pin ắc quy bảng
điều khiển, vì trung đội sẽ nhận nhiệm vụ mới đi theo Sư 324 vào tây nam Huế,
nên cần pin ắc quy đủ điện để chiến đấu,
nhân có trợ lý chính trị Sư 324 về làm công tác tử sĩ, tôi sẽ theo anh cán bộ
đó về Sư bộ hỏi đường về hậu cứ để nạp
điện cho pin ắc quy. Ngày hôm sau, sau khi giao cho Duy bảng điều khiển, tôi mang theo
khẩu AK, 3 viên pin ắc quy dự phòng theo
anh trợ lý chính trị về bộ chỉ huy Sư 324. Trên đường đi hai người nói chuyện
vui vẻ. Tên anh trợ lý tôi cũng quên mất. Chỉ nhớ dáng anh cao gầy, mặt trắng
trẻo, trán cao. Lúc đó tôi chưa biết thành tích của toàn đại đội, nên chỉ nói
về cuộc hành quân thần tốc của đại đội tôi từ Sơn Tây vào đây, cũng như chuyện
sinh viên nhập ngũ như thế nào.
Tại Sư Bộ 324
Sau hai ngày đi đường vào buổi chiều đó chúng tôi đến Sư bộ
324. Anh trợ lý chính trị dẫn tôi đến bộ phận văn nghệ của sư đoàn giới thiệu
tôi với mọi người và nói tôi chờ ở đó.
Nơi đây là rừng sâu trong đại ngàn. Cây cối cao lớn, có hầm nhưng thấy ít người
ở trong đó, tôi mắc võng dưới cây nghỉ. Vị trí ở trên núi cao nên muốn tắm rửa,
phải xuống dốc đi đến hơn 10 phút. Ở đây có sẵn nhà bếp nên cứ đến bữa là được
ăn, khỏi phải nấu. Tôi sinh hoạt chung với đội văn nghệ. Anh em toàn là lính
lâu năm đã ở Trị Thiên đến vài năm rồi, có vài người là dân Thái Bình. Cứ đến
buổi là mọi người tập văn nghệ, nhạc cụ có nhiều thứ, phần lớn là loại dễ mang
vác, như sáo, nhị, ghi ta, đàn thập lục, tam thập lục, đàn tranh, đàn bầu…. Họ
đang tập hát về một bài hát giải phóng Thừa Thiên Huế. Bài hát nghe cũng hay
lắm. Họ hỏi về B72 của chúng tôi, nhập ngũ năm nào, ở đâu. Ở đây có rađio nên
tôi được nghe tin tức. Chờ ở đây khoảng hai ngày, sáng ngày thứ ba thì anh trợ
lý chính trị tới và bảo tôi đi theo. Anh dẫn tôi đi độ khoảng một tiếng, đi ngoằn
ngoèo tới chân ngọn núi, và đầu một con đường mòn lên núi. Ở đây có cảnh vệ gác,
anh nói: Tôi đã giới thiệu đồng chí với với đồng chí X (tôi không còn nhớ tên)
bên mặt trận (hay sư bộ tôi không nhớ rõ). Đồng chi cứ lên gặp đồng chí X để chỉ
đường cho đồng chí nơi cần tới, và sau khi xong công việc trở lại Sư bộ 324
theo vào tây nam Huế để về đơn vi. Tôi gặp và xin phép cảnh vệ, anh ta để tôi
lên núi tìm anh X. Lên cao, sau một vài lần thăm hỏi, tôi tới một cái hầm, căn
hầm này có một hầm thùng rộng, lợp mái bằng cọ rừng. chờ một lúc thì có người
ra đó là anh X. Anh X đi ra và bảo tôi: “đồng chí chờ tôi một tý”, rồi quay vào
tay cầm tờ giấy chi chít số, tay kia nghe điện thoại. Tôi nghe loáng thoáng anh
ấy nói: “Có 3 xe hàng đã về Mai Lộc”,”Địch bây giờ đang nống ra”. Trong đầu tôi
miên man theo các tin đó và không theo dõi tiếp. Tôi nghĩ quái lạ, Quảng Trị
vừa được thắng lớn, địch bỏ chạy, ta bắt được nhiều tù binh, sao lại nống ra.
Nghe vậy cứ biết vậy tôi không suy nghĩ gì thêm. Sau khi nói điện thoại xong, anh X quay ra nghe tôi trình
bày. Anh ấy nói: “để tôi hỏi xem hậu cứ B72 ở đâu”, anh ấy lại quay điện thoại
và hỏi giúp cho tôi.
Về Ba gơ
Cuối
cùng tôi đã biết hậu cứ đại đội đang ở
Ba Gơ (cái tên này rồi tôi quên tiệt bao năm nay, đến tháng 7 -2012 gặp lại
anh Chu Trọng Cát nói tôi mới nhớ ra,
nhưng vị trí của nó trên bản đồ thì chưa thấy rõ). Tôi hỏi đường đi tới đó, anh
x hướng đẫn: ra bến vượt sông Ba
Lòng rồi hỏi tiếp. Tôi chào anh và đi luôn tới Ba Giơ. Đi khoảng hơn 3 tiếng
thì ra đến bến vượt Ba Lòng, bến vượt này là vị trí hôm B1 tôi hành quân vào
cách đây gần một tháng. Lúc đó đã quá 12 giờ một chút vì nắng còn nằm trên đỉnh
đầu. Tôi đứng lại tại bờ nam, thấy có
gần một tháng thôi, mà chỗ này đã thay đổi. Khu vực tôi đang đứng có thêm một cái kho, hình như
toàn thuốc nổ, đã được nguỵ trang, sau này tôi mới nghĩ ra, đây là thuốc nổ của
lính công binh dùng mở đường. Tôi đứng chờ để hỏi đường và xem có cơm xin ăn.
Trong khi chờ tôi thấy mấy lính ta đang đi đánh cá. Kỳ lạ là thuốc nổ là loại
dẻo, anh đánh cá một tay cầm nắm thuốc nổ như nắm bột, véo ra một tý bằng quả bóng
bàn rồi ấn kíp có dây cháy chậm vào nắm thuốc nổ nhìn như ấn củ hành vào bánh
bao, rồi lấy điếu thuốc lá đang hút từ trên miệng châm ngòi.
Sau
khi hỏi đường xin cơm ăn tôi vượt sông đi sang bờ bắc. Mới sang tới bờ bên kia
đi khoảng 50 mét, ven đường mòn tôi thấy hai cái đuôi bom cắm xuống đất còn bốn
cái cánh chồi lên trên, chẳng biết nó đã nổ chưa, tôi cứ đi, chân bước rảo thật
nhanh. Con đường này đi khác với hôm vào. Sau khi vượt một ngọn núi vừa đi vừa
hỏi, đến chiều tôi tới Ba gơ. Tới nơi gặp anh em trong đại đội, tôi thật mừng rỡ,
ở hậu cứ toàn lính và dân quân khí. Tại đây tôi gặp các anh em trong C bộ.
Trước tiên tôi gặp quân khí và nói yêu cầu về hậu cứ nạp pin. Rồi thì mọi người
kể cho nhau nghe. Hậu cứ đại đội là vùng
rừng bằng phẳng, cây thấp, các anh có đào hầm nhưng tối chúng tôi chỉ mắc võng
ngủ, không ngủ trong hầm. Đêm đó chúng tôi lại chuyện trò tới khuya. Qua anh em
nói tôi biết thêm tình hình đại đội. Anh Hoa đã hy sinh, Trần Thanh Hải lên
thay làm tiểu đội trưởng. Sự việc anh Hoa hy sinh là: một đêm thám báo địch dò
được hầm của anh và Hải, địch thả lựu đạn vào hầm, anh Hoa nằm ngoài nên bị dính
cả trái, còn Hải nằm trong nên chỉ bị sức ép, cũng may bọn thám báo không ném
tiếp chứ không thì Hải cũng gặp nạn. Còn chuyện nữa, anh Sức cũng bị hy sinh do
bom B52. Mọi người nói: Sau khi Quảng Trị giải phóng cánh trinh sát (hình như
có Nguyện) lấy được ít thịt tươi không rõ gà hay lợn mang về làm bữa tươi, ăn
xong cả thầy và trò đều vui vẻ tập trung ở hầm anh Sức, đến đêm mấy người đề nghị
ngủ lại hầm của anh cho vui. Anh Sức đuổi về hầm và còn nói nhỡ có chuyện gì
xảy ra thì chết cả nút. Không ngờ đêm đó, bom B52 đánh vào hậu cứ, anh Sức đã
hy sinh, các hầm của các anh em khác không việc gì. Tôi lại được nghe chuyện
tiểu đội trưởng Lê Văn Trung, khi trận địa bị tập kích (sự việc này đáng lẽ
phải hỏi lại anh Trung thì chính xác hơn), trên đường rút ra sau khi biết có anh em trong tiểu đội hy sinh còn nằm lại
gần trận địa (tôi không nhớ tên), anh Trung đã khổng nề hiểm nguy quay lại lấy
bằng được tử sĩ ra ngoài chôn cất. Trong thâm tâm tôi thật cảm phục bản lĩnh
của anh . Tôi đã nghĩ gặp trường hợp như vậy, tôi là A trưởng có làm được như
anh Trung không?. Tôi được anh em quân
khí chỉ cho các hầm kiểm tra đạn trước khi đưa ra sử dụng. Ở đây gần hai ngày,
tôi cáo biệt anh em, họ cố mời ở lại thêm. Tôi nói phải về ngay để kịp theo Sư bộ 324 tìm về trung đội.
Tôi lấy bản đồ trên là trong hồi ký
của một Sĩ quan quân đội VNCH trên mạng những năm gần đây, trong đó có ghi vị
trí Ba Gơ, vì trên bản đồ hiện nay nó không thấy ghi Ba Gơ ở vị trí cả. Thực ra
tính theo đường chim bay, nếu theo đường rừng tốc độ 1 giờ 2 cây số thì Ba Gơ
cách bến vươt Ba Lòng khoảng sáu cây số theo đường chim bay. Và ngã ba Làng Nút
cũng cách khoảng như vậy. Ba Gơ chỉ là
một hậu cứ quân khí của đại đội tôi. Sau
này nó nằm trên hành lang vận chuyển của các chiến dịch. Đây là lần duy nhất
tôi đến Ba Gơ và từ đó không quay lại nữa.
Sau hai ngày kể từ khi tôi đến Ba Gơ sáng hôm đó tôi quay trở lại Sư bộ
324. Tôi đi theo đường cũ, đến trưa thì tới bến vượt Ba Lòng, vẫn đi qua mấy
cái đuôi bom bên đường. Vượt sông xong đã quá trưa tôi đi tới chiều thì về đến Sư
bộ 324.
(Bản đồ có vị trí Ba gơ, hậu cứ của đoàn 672)
Đường vào Tây Nam
Huế
Ở
sư bộ 324 được khoảng một tuần thì tôi
cùng đoàn văn công sư đoàn lên đường vào Tây nam Huế. Đoàn văn công chỉ toàn
nam chứ không có nữ. Các anh chắc lớn hơn tôi vài tuổi, phần lớn đã nhập ngũ từ
trước 1967. Chặng đường đầu là đi tới chân Cốc Bai
Trên
đường đi phải trèo đèo, lội suối. Khi ở trên đỉnh núi cao, nhìn xuống đồng bằng
giữa trưa, ánh phản chiếu của các mái nhà tôn chói xoá. Nhìn ra ngoài biển tôi
thấy bốn, năm chiếc tàu Hải quân của Mỹ nằm
xoay xuôi, xoay ngược, lâu lâu phụt ra luồng khói ở một đầu nòng pháo,
đó là bọn Hải quân Mỹ đang bắn pháo vào vùng rừng có bộ đội ta. Có khi đoàn
chúng tôi đi qua ngầm do công binh làm cho ô tô chạy, có khi lội suối vượt bãi
khách. Hồi ở Mỏ Chén anh Phượng trung đội trưởng đã nói: “Bãi khách thường là
nơi có suối, bằng phẳng dễ nấu ăn, dễ mắc võng nghỉ ngơi. Nhưng lính ta thường
để sản phẩm tiêu hoá lại, nên người đến sau không dừng chân nổi”. Đúng như vậy,
tôi đi qua bãi khách thấy đẹp thật, nhìn rất hấp dẫn, nhưng không dừng lại
được. Có hôm đi qua đoạn suối sâu, các
anh còn bắt được cá Chình, thế là lại có bữa tươi. Sau khi đi được 3 ngày chúng
tôi nghỉ đêm tại một vị trí cách Cốc Bai khoảng nửa giờ. Hôm sau chúng tôi sớm
và đến bờ suối, qua bờ bên kía là đầu con đường mòn leo lên Cốc Bai. Nơi đây là
đầu nguồn của sông Ô lâu và sông Mỹ Chánh
Tại
đây rất nhiều đơn vị cũng đang vượt Cốc Bai. Độ dốc ở đây rất cao, chúng tôi đi
lẫn vào các đơn vị, đi hết buổi sáng mới lên tới đỉnh. Đường trên đỉnh là đường
mòn theo sống trâu. Trên các bản đồ không thấy ghi tên địa danh Cốc Bai, nó
chính là điểm cao 565, mấy năm trước lính
Mỹ, Nguỵ đã chốt ở đây.
Trên đỉnh Cốc Bai, tôi thấy nhiều hố thám báo,
có chỗ vỏ hộp đổ thành đống, có vài chỗ bên cạnh miệng hố thám báo đạn đại
liên, đạn AR15 còn cả đống, nhìn về phía tây, thấy núi rừng bạt ngàn, nhìn ra
hướng đông thì cảnh như tôi nói ở trên càng rõ hơn. Rồi lại nghe tiếng hót kéo
dài, tôi hỏi ra mới biết là vượn hót. Lên đến đỉnh Cốc Bai là vào đến đất Thừa
Thiên
http://www.vnmilitaryhistory.net/index.php?topic=24906.15;wap2 (khe coc –ba gơ)
Đường sống trâu khá dài, chúng tôi
đi cả buổi chiều mới hết. Tôi lại gặp mấy anh em cối 120 ly, cái đế cối bốn
người khiêng ì ạch thế mà cũng phải vượt Cốc Bai, còn đế cối 82 to bằng cái nia
thì chỉ một người đeo sau lưng, sau khi
chèn các đồ lót cho êm. Các anh 12,7 ly cũng phải vất vả nặng nề, cả cây
súng một người vác, còn chân còn, bệ nữa, các anh 14,5 ly cũng cồng kềnh không
kém. Dần dà sau đó tôi gặp được các anh A72. Hai bên hỏi chuyện qua lại, tôi
mới biết A72 phát huy tác dụng trong tầm 3km. Thế là giống B72 chúng tôi, khi bắn
một người làm giá như kiểu anh Bế Văn Đàn làm giá súng, người ngắm bắn đếm nhẩm
từ một đến bảy. Đạn bay ra tự tìm mục tiêu. Có một điều lạ là bắn xong phải
mang ra Bắc nạp đạn lại. Tôi đã hỏi đi hỏi lại điều này, các anh ấy vẫn trả lời
như vậy.
(trang web sau cũng có anh nói như
điều tôi vừa kể
Vì
mang nhẹ nên hôm sau đoàn chúng tôi vượt lên trước. Cốc Bai đã tạo độ cao cho
cuộc hành quân. Bây giờ chỉ việc đi xuống, Ngày thứ ba này chúng tôi đi xuống
theo một khe đá. Chúng tôi phải bò xuống thì đúng hơn. Mỗi bước đi xuống là
bước trên các mỏm đá. Có chỗ phải bò trên một khối đá lớn, trượt chân là ngã. Trên
đường đi tôi lại học được các anh nấu cơm bằng thùng đại liên, cơm nấu bằng
thùng đạn ăn rất ngon vì như nấu bằng nồi áp suất vậy. Từ sáng đến trưa tụt mãi
mới xuống được chân khe đá. Trên đường đi tôi thấy lính bảo nhau: bộ đội đang
rất thiếu muối. Không biết họ đã vào bao lâu và ở trong này có tiếp tế muối
không. Tôi nghĩ bụng, hai cân muối tôi
đang mang trong ba lô phải giữ gìn cẩn thận cho tiểu đội và cả trung đội nữa. Vì
nếu bị mưa ướt thì hỏng bét. Hơn nữa còn 3 cục pin, nếu ướt mà hỏng thì chuyến
đi của tôi thành công cốc. Qua radio tôi lại được nghe miền Bắc đang chuẩn bị
cho đợt thi đại học lần thứ ba. Tôi thấy bồi hồi xúc động nhớ tới những ngày
này mấy năm trước. Sau khi xuống khỏi khe đá chúng tôi đi tiếp theo con suối
dài, đá gập gềnh, thì đã gần chiều. Đoàn văn công lại nghỉ lại một vị trí ven
bờ suối. Chúng tôi lại kiếm củi nấu cơm, người thì mắc vọng nằm nghỉ, riêng tôi
coi như là khách chưa tham gia làm gì. Phải nói là các anh trong đoàn toàn lính cựu, có nhiều kinh
nghiệm sống trong rừng. Khi kiếm củi họ chọn những cây chết đứng, vừa khô vừa
nỏ. Vùng rừng này không có cây cao, mà toàn dây leo, chắc trước đây bị Mỹ thả
chất hoá học nên cây to bị chết đứng. Khi đi đường thấy tôi múc nước suối uống
họ phê bình uống như thế có ngày sốt rét. Và đúng như vậy chỉ vài tháng sau tôi
đã bị sốt rét như dưới đây tôi sẽ nói. Ở trong rừng sâu này không nghe tiếng
bom, tiếng pháo tiếng máy bay, tưởng như chiến tranh chưa hề đến nơi đây vậy. Đêm
đó mưa và cả ngày hôm sau nữa. Sáng dậy mọi người nấu ăn sớm và lên đường. Con
suối này thật dài, nó là suối đá cạn. Các anh trong đoàn nhỏ con nhưng bước
thoăn thoắt trên những mỏm đá lưa thưa trên suối, nếu bước trượt là ngã vỡ mông
liền. Sau này khi đọc về lịch sử của Sư 324 mới biết lính 324 là thổ địa của
đất Trị Thiến. Thảo nào các anh ấy thông thuộc đến thế. Hết suối lại qua một
đồi tranh khi gặp một vài cây cháy các anh bảo đây là buôn của người dân tộc,
chắc bà con đã bỏ đi chỗ khác ở. Rồi các anh lại gặp một cây giống cây cọ, gọi
là cây báng. Họ cắt lấy phần đọt, trông như đọt chuối. Chiều đó tôi được bữa
canh báng, như canh măng, thật ngon. Sau này đi đâu tôi cũng để ý tìm cây báng
mà không thấy, chắc lính ta đã tìm diệt chúng hết sạch.
Ngày
tiếp theo đoàn chúng tôi lại đi xuống. Cứ
lội theo con suối, lúc thì nước lên gần đầu gối, lúc chỉ tới mắt cá. Sỏi ở đây
nhỏ đều bằng quả bưởi trở xuống nên dễ đi hơn. Hết ngày chúng tôi tới một cánh
rừng già. Ở đây bộ đội hành quân vào như đi hội. Hai bên đường mòn bất cứ cây lớn nào cũng đều
có khắc “Quyết tâm giải phóng Thừa
Thiên Huế” rất rõ ràng và dễ đập vào mắt, cứ như là ta thấy nó ở bên bờ Hồ
Gươm vậy. Nhìn quang cảnh và khí thế quân đi, tôi rạo rực trong lòng, cùng với
bài hát mà đoàn văn công của Sư 324 cảm thấy ngày thắng lợi gần đến nơi. Đi
suốt cả ngày đến một quả núi, đoàn văn công dừng lại nghỉ. Ở đây có hầm hố đàng
hoàng. Hình như trên đường đi đoàn đã
gặp người quen đóng gần đó. Các anh trong đoàn văn công nói với tôi đợi để
các anh liên lạc với đơn vị phối thuộc
của B tôi. Tôi lại phải chờ đợi. Hôm sau, có một đơn vị sang mời cả đoàn văn
công sang ở chung và bảo ngày tiếp sẽ làm bún. Tôi ngạc nhiên, ở chiến trường
mà lính làm bún được. Hôm sau tôi cũng theo sang chỗ đơn vị đó (chắc chắn là
của 324 rồi). Sau khi làm quen, mấy anh phân công nhau thực hiện, mọi người đã
ngâm gạo từ hôm trước, cối giã là mấy mũ sắt của quân Nguỵ. Hôm đó trời hơi
mưa, nhưng hầm ở đây đàng hoàng lắm, có hầm thùng rộng, có mái che, nên sinh
hoạt thoải mát, không lo ướt. Tôi được phân công đi lấy lá. Ở chỗ này chuối
rừng không có, mấy người nói cứ xuống dưới khe tìm lá gì cũng được, thế là tôi
giắt dao găm lội xuống dưới núi, khi xuống tận chân núi, ngoảnh lến nhìn thấy cây
cối rậm rịt, đỉnh núi ở tít trên cao. Tìm một hồi tôi gặp một khóm lá như lá dong
gói bánh chưng, tôi nghĩ chẳng còn loại nào khác nữa, thế là xông vào chặt đại,
bụi lá này nếu cắt hết cũng có thể gói được mấy nồi bánh chưng lớn, tôi chặt
đến khi không thể ôm được mới thôi. rồi
còn mang đi rửa, khệ nệ leo lên
dốc. Lên đến nơi mọi người khen là lá tốt.
Đến quá trưa mọi người mới làm xong. Bún được ăn với nước chan thịt hộp nấu
nấm và rau rừng, thật là một bữa ngon. Các anh ở đoàn văn công nhờ ban chỉ huy
đơn vị ở đây liên hệ tìm nơi đơn vị B72 chúng tôi đang đóng quân. Chắc các anh đoàn
văn công sẽ đóng đô tại đây, không đi nữa. Những ngày ở đây tôi lại được tin có
đơn vị vận tải nào đó đang vận chuyển đạn B72 vào Tây Nam Huế. Nghe nói họ tháo
đạn ra khỏi thùng, lắp lại vác vai. Tôi nghĩ trong đầu, không biết cách vận
chuyển này có an toàn không. Có thể có nhiều tác động vào viên đạn, nào ẩm ướt,
nào va đập, sứt mẻ, khi bắn có ảnh hưởng gì không, trong khi ở trong này chúng
tôi không có quân khí
Chờ
được vài ngày, các anh ở đây giới thiệu tôi với đơn vị sẽ vào khu vực tác chiến
có trung đội tôi tham dự. Thế là tôi từ biệt các anh đoàn văn công 324 và các
anh tại đó đi theo đơn vị đã được giới thiệu. Lần này đi thật vất vả. Chúng tôi
phải vượt qua những chặng đường hiểm trở. Có hôm cả ngày chúng tôi cứ lần theo
triền núi cheo leo. Vách núi gần như dựng đứng. Phía dưới là suối đá, chúng tôi
người sau lần theo dấu chân người trước, tay bíu vào các nhánh cây nhỏ như cây
ớt. Nếu ai nghiêng mình làm đứt rễ cây là rơi xuống vực sâu đến năm sáu chục
mét. Lúc này theo radio tôi đã nghe tin địch đã chuẩn bị nống ra, nhân ngày
quân đội của chúng là ngày 19/6.
Sau
mấy ngày cùng nhau đi, một hôm vào buổi sáng đơn vị tôi đi theo chuẩn bị rẽ
hướng khác, một anh có lẽ là chỉ huy nói với tôi: cũng gần đến chỗ đơn vị B72 rồi, đơn vị sẽ cử
một người đẫn đường cho tôi thêm một đoạn nữa . Ngày đó có lẽ là 10/6/1972 người
dẫn đường cùng tôi khởi hành từ sáng sớm, đi được khoảng hai tiếng, sau khi đi dọc bờ tả một con sông, chúng tôi
lên một cái dốc, Khi cả hai đã tới đỉnh, anh dẫn đường chỉ tay về phía xa khoảng
2 km đường chim bay nói: ông cứ đí đến cuối khoảng rừng trống, hết thì rẽ trái
đơn vị ông ở đó, có gì đến đấy ông cứ hỏi tiếp, tôi phải quay lại đơn vị. Tôi
nhìn theo hướng người lính đó chỉ, phía trước là đồi cây thấp, không có cây
rậm; Sau khi cám ơn người lính tôi đi một đoạn và đứng ngắm ngía con đường xắp tới, tình cờ
nhìn thấy bên cạnh cái hầm một hố sâu hoắm, sâu đến sáu, bảy mét. Hoá ra là một
quả bom rơi không nổ đã chui xuống đất đã lâu rồi. Đang tần ngần định bước
tiếp, thì có tiếng pháo rít và nổ rầm rầm liên tiếp. Gần một tháng qua tôi
không nghe tiếng pháo, bây giờ lại gặp, điều này báo hiệu những ngày ác liệt xắp
tới. Tôi tiếp tục rảo bước, đi đến quá trưa thì tới cuối cánh rừng trống, tôi
rẽ trái theo đường mòn vào sâu trong rừng cây cao, sau khi hỏi tiếp nơi B72
đóng quân, tôi phải đi một vòng qua nhiều đơn vị, rồi đi vào con đường toàn là
song. Mỗi bước đi phải nhấc cao chân để tránh, nếu không thì bị vấp ngã. Song ở
đây mọc từ dưới dốc lên đỉnh, tràn cả xuống suối, nhằng nhịt. Qua đoạn này lội tiếp đoạn suối,
tôi đã về tới đơn vị. Anh Phượng ở tiểu đội 3, gặp tôi nói đùa: “tưởng ông không về nữa chứ”, tôi chỉ cười. Cả trung đội
đã ra trân địa, ở cứ còn có vài người. Thế là sau gần một tháng xa trung đội
tôi đã trở về, ngày đó là ngày 10/6/1972.
Tôi
ngủ cùng hầm với Loát cách bờ khe khoảng 70 mét, còn Hùng, Phượng tiểu đội 3 ở
hầm phía trên, Ở phía trên theo dọc con suối bên cạnh chúng tôi có hậu cứ của
lính 12,7, Ở lẫn với chúng tôi có hai nhà báo. Tôi cũng gặp và nói chuyện với
các anh vài lần. Thấy mọi người nói nấu cơm chưa có bếp, nên tôi nói sáng hôm
sau sẽ xuống phía dưới đào bếp Hoàng Cầm. Hôm sau, khoảng 8 giờ sáng tôi và anh
Hùng mới chấn đất được phần cửa bếp, thì đột nhiên bom B52 đổ xuống, tiếng nổ
cũng xé tai đanh...đanh như ngày nào, tôi vội lăn xuống rãnh nước chảy do mưa
làm sói mòn và dán mình xuống đó, đồng thời ngó quanh và ngước thấy phia trước
có cây to, có khoảng trống giữa hai rễ cây tạo thành hai bức tường, tôi vội
nhoài người đưa đầu vào đó, phía sau tôi Hùng cũng trườn tới và còn úp cái
xoong 20 lên đầu tôi. Một lúc sau hết ba đợt bom chúng tôi đứng dậy, thấy cây
cối phía hậu cứ của 12 ly 7 đổ ngổn ngang, không biết có ai bị sao không. Phía
bên hầm chúng tôi không có ai việc gì. May quá hai anh nhà báo đã đi đâu từ sớm. Trận bom vừa rồi
rơi lên phía cao, chúng tôi ở phía thấp hơn, may không có quả nào rơi xuống chỗ
chúng tôi. Như vậy trận bom rơi tuy sát rạt nhưng chúng tôi may không việc gì. Khi hoàn
hồn nghĩ lại hành động của Hùng vừa buồn cười mà vừa cảm động, buồn cười vì cái
xoong 20 chắc chỉ đỡ cho tôi được đá văng vào đầu chứ trúng mảnh thì chống
không nổi. Cảm động vì trong cơn hoạn nạn, Hùng đã nghĩ đến tôi mà quên mất anh
ấy. Đến nay đã qua bao năm nhưng tôi vẫn ghi nhớ hành động này của anh, bây giờ
không biết anh ở đâu. Trận bom B52 này đúng
vào ngày 5 tháng năm âm lịch (12/6/1972), ngày này nếu ở nhà ba mạ tôi đang nấu chè xôi
giết sâu bọ. Hôm nay sâu bọ lại suýt giết chúng tôi. Ngày đầu tiên trở về đơn
vị được trận bom B52 chào đón, thật hú vía. Rồi chúng tôi cũng hoàn thành nốt
cái bếp trong sáng đó. Nếu không phải chờ đợi chắc đợt công tác của tôi rút
ngắn được bao nhiêu thời gian, anh
Thành, anh Phượng đỡ phải lo lắng. Nhưng qua đấy tôi cũng thấy được sự tin
tưởng của các anh vào tôi.
Tới
tháng 6/1972 sư 324 có lẽ đã chuyển hết toàn bộ vào đánh phía Tây Nam Huế. Sau
khi về hậu cứ, nếu các anh phóng viên ở nhà là chúng tôi được nghe radio, tôi
biết thêm tình hình chung, địch đã nống ra để tái chiếm Quảng Trị, riêng Tây
Nam Huế chiến sự đã căng thẳng hơn, bom pháo cứ ầm ỹ hàng ngày, nghe nói địch
đã dùng các hầm hào của ta đã đào để cố thủ, nên khó đánh. Tin tức từ trận địa
về, nghe anh Nguyễn Khắc
Kỳ bắn máy bay trực thăng, nhưng nó cất cánh đột ngột nên trở tay
không kịp và không diệt được nó.
Từ khi vào đây thức ăn đã cạn, gạo
thì đủ thứ; gạo dẻo là loại ăn thấy ngon nhất, thứ hai là gạo thường, cơm trắng
nhưng nhạt, còn chối nhất là gạo đồ, loại này khi nấu đổ bao nhiêu nước cũng
được, cơm chín thì không có hạt cơm nào dính với nhau cả, nó rời từng hột cơm
một. Vớ phải gạo này là chối nhất. Ai mới tập nấu cơm thì nấu gạo đồ là tuyệt vời,
vì muốn đổ bao nhiêu nước cũng được. Gạo đồ mỗi bao nặng 10 cân. Còn các loại
gạo kia vì từng người gùi nên ít được bao nguyên. Chúng tôi ăn uống đơn giản
lắm, cơm ngày 3 bữa, còn canh thì xuống bờ suối hái môn thục, rau chua. bỏ vào
nồi nấu chín pha muối, mì chính thế là có đủ thức ăn. Nếu trên đường đi không
có rau thì chỉ ít nước suối pha muối, mì chính là thành canh. Khi vớ được rau
tàu bay thì như vớ được bắp cải, súp lơ vậy, chứ đừng nghe ai nói vớ nói vẩn nó
làm hại máu, hại miếc. Lâu lâu được cấp
thêm vài bánh lương khô. Quân Nguỵ nói là Việt Cộng ăn cám ép. Ngược lại nếu vớ được gói
gạo sấy của địch trộn với lương khô thì ngon tuyệt vời. Nhưng rất lạ là bất kỳ hột
cơm sấy nào cũng rỗng ở bên trong. Ngày qua ngày ăn uống cứ lặp lại như vậy. Hàng
ngày cứ nghe tiếng pháo rít uỳnh oàng. Có hôm cả nhóm 4 người đang ngồi chuyện
trò tại hầm thùng của tôi, nghe tiếng rít của pháo tưởng nó đã đến nơi. Thế là
cùng một lúc bốn anh bật nhanh lao vào hầm, cái miệng hầm to một người chui qua
lại bình thường, thế mà bốn anh bị kẹt cứng, không nhúc nhích được. Cũng may
pháo không rơi gần đấy, nếu không thút nút kiểu đó thì tất cả đều dính mảnh. Phản
xạ của con người giữa sống và chết thật
kinh ngạc. Sau khi hết tiếng pháo, cựa mãi mọi người mời rời nhau ra được. Cây
rừng ở đây thật to cao, có hôm đi tìm củi thấy có cây to một người ôm không
xuể, bị trúng pháo, tước ra từ trên ngọn xuống gần gốc nhìn mà tiếc. Chiến
tranh đã phá các cây rừng quý giá. Hồi ở nhà, kiểm lâm quản lý từng khúc gỗ, mà
ở đây bom pháo phá tan hoang cả khu rừng. Có những lúc bi quan suy nghĩ, chỉ có
hơn hai tháng mà đã bị mấy trận bom B52 suýt về chầu trời, bao nhiêu gian khổ,
sống hôm nay không biết có ngày mai. Tuy nhiên cứ mỗi lần các anh nhà báo mở
đài, tinh thần tôi lại phấn khởi, phấn chấn trở lại. Nghe tiếng nói từ hậu
phương, nghe tin chiến thắng ở các chiến trường cùng chia lửa.
Ở
đây các anh Phượng, Loát là dân nghiện thuốc lào. Đặc biệt là Loát, không biết
hôm đi vào rẽ qua nhà Loát có kịp mang được gói thuốc nào không. Đến giờ anh
chàng hình như chẳng còn thuốc nữa. Loát thường lân la đi xin thuốc. Chắc cũng
vì đi hút thuốc ké mà Loát mang về khối chuyện thời sự. Nào là có tiểu đội hoặc
đơn vị nào đó giữ chốt, cả đơn vị thương vong hết có một anh bị mảnh đạn lòi cả
ruột ra, anh ấy lấy bát B52 úp vào chỗ ruột lòi ra băng lại, cố lê , lết về
tuyến sau cho tới khi gặp được người mình. Rồi lại có tin có một lính nào đó là
con một vị cán bộ bị địch bắt, nên cấp trên đang cảnh báo cho các đơn vị đề
phòng, sợ khi người lính kia có thể bị tra tấn mà khai báo gì chăng, và cấp
trên đang điều một số đặc công vào thành Huế xử lý vụ này. Nhìn các anh nghiện thuốc hút thuốc ké mới
thấy cơn đói thuốc chắc chỉ ở chiến trường mới có. Các đơn vị bạn thường có
lính mới từ Bắc vào, quý nhất là biết đó là đồng hương. thế là lính nghiện đến
xin hút ké, anh chủ thì tất nhiên đàng hoàng hút rồi, còn các anh hút ké không
phải là thay điếu thuốc mới vào đâu, mà là lần lượt tiếp tục châm lửa vào góc
ngoài điếu thuốc chưa cháy hết, nên một điếu thuốc nhiều nhất sẽ được bốn anh
ké. Sự chia xẻ này thấy tình đồng đội, tình quê hương sao da diết vậy. Nhưng,
dịp hút ké không phải lúc nào cũng có, nên Loát gom góp tàn thuốc cất đi phơi
khô để dành, khi thèm mang ra hút. Có lúc chẳng còn gì Loát cạo tinh giang phơi
khô, hoặc rang gạo lên để khắc phục cơn thèm khi không có thuốc. Cả trung đội
chỉ có vài người nghiện thuốc, hình như Tráng tiểu độ 3 cũng nghiện thuốc lào. Anh
Duy ở tiểu đội tôi nghiện thuốc lá, nghe nói có lần Loát và Phượng mời bắn thử
thuốc lào, anh ấy mới thử đã chịu không nổi. Thuốc lá điếu anh Duy gắn cho cái
tên “thuốc thẳng”, không biết có phải anh ấy nghĩ ra hay đã nghe ai đó nói lại.
Nếu có muốn xin thuốc ai anh ấy hỏi: “có thuốc thẳng không?”. Anh Duy là trắc thủ chính của tiểu đội tôi nhưng trong suốt
thời gian ở chiến trường, chúng tôi ở các hầm khác nhau, chắc đây cũng là cách
giữ an toàn lực lượng trắc thủ của các anh Thành, Phượng. Hơn nữa với cách anh
Thành, anh Phượng bố trí lực lượng chúng
tôi ra trận địa thời gian không trùng nhau, nên cơ hội chuyện trò ít hơn Loát,
Phượng, Nhi, Hùng. Anh Duy thỉnh thoảng cũng kể về những kỷ niệm thời còn ở
trường khi vui vẻ.
Ở
chiến trường lâu dần chúng tôi cũng học hỏi đúc rút được vài kinh nghiệm. Khi
thấy máy bay trinh sát của B52 đi qua thì cũng biết cần thận trọng, trong vài
giờ tới coi chừng sẽ có trận bom B52 ở đâu đó gần mình. Khi trên trời lặng
tiếng máy bay VO10 và F4 thì đó là khoảng không gian yên tĩnh đáng sợ, vì chắc
chắn đên 90% sẽ có bom B52 đổ xuống. Khi nhìn trời thấy B52 cua có thể biết bom
sẽ rơi ở khoảng nào. Nếu nó cua ngay trên đầu thì yên tâm. Còn nó đã cua và vòng
cung ngoài đường cua hướng về mình thì có thể bom đã rơi ngay trên đầu rồi. Ở
đây cấp trên cũng có một nguồn thông tin qua “đài kỹ thuật”, biết trước phạm vi
B52 đánh trong vòng 3 giờ và thông báo kịp thời cho các đơn vị ở trong vùng đó.
Ở đây pháo 130 ly của ta cũng đã vào
tham chiến, nhưng chắc có ít hơn so với ở Quảng Trị, vì đường vào đây khó đi,
hiểm trở. Có hôm pháo ta depa Bung…Bung...Bung rời rạc vài ba quả, chắc là để
chỉnh toạ độ bắn, anh Phượng (A3) nói đùa bảo: “Pháo Việt Cộng kích cấp
tập 5 quả đấy”. Còn khi địch pháo kích
thì cấp tập đến hàng trăm quả. Dù sao thì tiếng pháo ta đã động viên bộ đội rất
nhiều. Về hậu cứ trung đội được khoảng hai tuần. một hôm anh Thành về, nghỉ
được vài ngày anh lại ra trận địa, tôi xin đi theo ra thăm anh em. Sáng dậy sau
khi ăn cơm xong, hai thầy trò lên đường. Trên đường đi tôi thuật lại chuyến đi
công tác về Bagơ cho anh Thành nghe, và chuyển lời anh em ở hậu cứ đại đội hỏi
thăm các anh. Đường ra trận địa đi qua một khu có chuối rừng, anh Thành rẽ vào,
tìm kiếm và cắt ra một bắp chuối, anh bảo mang về bóp muối trộn mỳ chính ăn rất
ngon. Đến khoảng trưa thì chúng tôi tới bàn đạp, có một số anh em ở đây còn các
anh Tuấn, Kỳ, Duy, Cứ, Tường đều ở ngoài trận địa, không biết anh Phượng có
ngoài đó không nhưng ở bàn đạp tôi không thấy anh. Anh Thành trực tiếp đạo diễm món bắp chuối
trộn. Quả thật món bắp chuối trộn ngon thật.
Thức ăn ngon lại thèm cơm nên tôi đánh đẫy cả bụng. Ở đây qua trưa anh Thành
bảo về hậu cứ chứ không ra trận địa nữa. Tiếc quá tôi muốn ra trận địa xem tình
hình thế nào, nhưng đành để dịp khác. Vì điều này nên tôi không
biết giai đoạn chúng tôi ở bắc đường 12 trận địa của trung đội tôi bố trí ở đâu.
(còn nữa)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét