17 thg 2, 2014

Một dải non sông

honngv: đọc bài này cứ như thấy hình bóng mình ở đâu đấy trong những năm tháng cùng ăn cùng ngủ cùng rèn với lính chiến "trấn ải" Lạng Sơn - những nghĩ suy và gian nan của người lính phía trước.

AFR Dân Nguyễn. 

Tôi nhập ngũ tháng 3/1979, sau đúng 1 tháng khi quân Trung Quốc đã bị đánh bật trở về bên kia biên giới. Biên thùy không còn bóng một tên bành trướng. Những chiếc mũ vải đính sao “Bát nhất”, hoặc theo giặc Tàu nằm lại chiến địa nơi chúng vừa giày xéo, hoặc theo chúng tháo chạy về bên kia biên giới.

Biên cương đã bình yên; Nhưng vết dao giặc đâm trên cơ thể Đất Nước vẫn còn chưa khép miệng. Những vết đâm của kẻ giết người bệnh hoạn để lại những phố phường chỉ còn là bình địa, những làng bản xóm thôn tan hoang, không xao xác tiếng gà gáy trưa…

Từ trung đoàn tôi đi bốn km thì đến thị trấn Móng Cái- cái thị trấn với những dãy phố cổ thơ mộng nằm bên dòng sông Kalong xanh trong hết đỗi hiền hòa. Tôi nhập ngũ trong những ngày “Loa phường” truyền đi bản Thông điệp “Đừng đùa với lửa” của “Tập đoàn Lê Duẩn” gửi cho “Bọn bành trướng bá quyền Bắc Kinh”. Quả thật tôi đang sôi gan. Tiếng trống trận Đống Đa, Ngọc Hồi đang thúc dồn trong tim những lính trẻ như tôi.

Tiếng vó ngựa biên cương từ Ải chi Lăng, Từ sóng Bạch Đằng đang dâng lên trong lòng hết thảy người Việt, từ Nam chí Bắc. Người Miền Nam, dù là thành phần “ Ngụy quân ngụy quyền”, hay “Gia đình cách mạng”, đều hướng lòng về một dải non sông nơi đất Bắc, nơi dải biên cương thiêng liêng đang bị giặc giày xéo… Nơi hai anh em nhà Nguyễn Trãi nén đau vào tim cắn môi ghìm tiếng khóc nhìn theo chiếc xe đóng cũi người cha kính yêu,… giờ lại phải chứng kiến tiếng gầm của xe tăng, tiếng rít của đại bác bên kia sông rót trái phá xuống đầu hậu duệ của Lý Thường Kiệt, Trần quốc Tuấn… “Nam Quốc sơn hà Nam Đế cư.”.

Phải rồi, sông núi nước Nam vua Nam ở. Rành rành định phận ở sách trời… Sao quân giặc dám tới cướp phá giết chóc, sao dám gây tội ác đến đỗi “Trúc Nam sơn không ghi hết tội”, “Dơ bẩn thay nước Đông Hải không rửa sạch mùi”. Tội ác quân thù chất chồng như núi, khiến Đại soái Nam QuốcTrần Quôc Tuấn tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa… Lời nguyền “Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa ta cũng cam lòng.” không chỉ được hiện thực hóa từ trái cam bị bóp nát trong tay thiếu nhi Hoài Văn Hầu, không chỉ là những chữ “Sát Thát” thích trên cánh tay tráng sỹ, là những tiếng hô “Quyết đánh” của các bô lão ở Diên Hồng, mà là những chiến công hiển hách, là “Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã”, Ải Chi Lăng Liễu Thăng cụt đầu”…

Tôi ra biên cương trong tâm thế của Nguyễn Trãi Lê Lợi “Đánh một trận sạch không kình ngạc. Đánh hai trận tan tác chim muông. Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ”…Chúng tôi ra biên cương trong tâm thế của Bà Triệu “Muốn cưỡi cá kình”. Chúng tôi ra biên cương trong tâm thế của “Lớp cha trước, lớp con sau. Đã thành đồng chí chung câu quân hành.”. Chúng tôi ra biên cương, ngồi trên xe, đi trên bộ hát vang khúc quân hành “Mang trên mình còn lắm vết thương, Người vẫn hiên ngang ra chiến trường…”, bởi vì “Chúng tôi là đồng đội của Lê Đình Chinh…”.

Vào những năm của thập niên 60s thế kỷ trước, khi chiến tranh bắn phá của máy bay Mỹ leo thang ra Miền Bắc, những thằng bạn cùng lớp tôi có cha mẹ là cán bộ thì được ra Móng Cái học. Hè về, gặp lại nghe chúng kể về Móng Cái, về dòng sông Kalong, tôi thèm khát được ra xem một lần cái mảnh đất địa đầu ấy vô cùng. Nhưng đó chỉ là mơ. Tôi biết vậy nhưng không chịu dứt khỏi mơ. Mà mơ nhiều khi đẹp hơn thật.

Rồi tôi cũng có dịp mục kích vẻ đẹp của dải đất biên cương này. Được thấy cái thật chẳng kém gì mơ. Tôi nhập ngũ theo lệnh Tổng động viên của Bác Duẩn, mà phía bên kia biên giới, những chiếc loa công suất của “Bốn hiện đại hóa” chĩa sang bên thị trấn Móng Cái vẫn ra rả mỗi ngày “Tập đoàn Lê Duấn  phá hoại tình hữu nghị Việt Trung do chủ tịch HCM và Mao Trạch Đông dày công vun đắp…”. He he, tập đoàn nào không biết, nhưng cứ dám đánh Tàu, dám nối tiếp truyền thống cha ông, đánh cho chúng không còn mảnh giáp, đánh cho chúng không kịp chui vào ống đồng, đánh cho chúng khi chạy về tới nhà vẫn còn tim đập chân run là thích rồi. Chưa cần biết thắng thua. Nhưng dám đánh trận, quyết không chịu nhục nhã cúi đầu làm thân trâu ngựa là thích rồi. Thắng thua còn là chuyện của Trời.

Người tính không bằng Trời tính. “Không thành công cũng thành nhân”. Sợ gì!...Thực ra “ta” ngày ấy không chỉ cậy có Liên Xô với cái “Hợp đồng”  bênh nhau toàn diện trong vòng 25 lăm vừa được ký với đồng chí Bép nhép, mà cái chính là ta biết khơi dậy lòng yêu nước trong Dân. Dễ bao lần không Dân cũng chịu. Khó muôn lần Dân liệu cũng xong…Với lại Liên Hợp Quốc đâu phải bù nhìn. Lệnh cấm vận của Mỹ đâu phải trò đùa. Có phải cứ hứng lên, thích “uýnh” ai là uýnh được đâu. Ta đánh Khermer đỏ, chính nghĩa là vậy, mà nấn ná ở lại đâu Quốc tế có chịu…

Trung đoàn bộ 43 của chúng tôi đóng dưới chân đỉnh 313. Tiểu đoàn 264 đóng trên U bò. Tiểu đoàn 244 đóng trên đỉnh 404. Từ U bò hay đỉnh 404 nhìn xuống là dòng sông biên giới. Ở nơi đây nhìn sang bên kia sông là những nương dâu bãi mía xanh ngắt, là những ruộng bậc thang lúa chín vàng, đẹp như bức tranh lụa. Những người nông dân Trung Quốc lam lũ hiền lành như dân Việt. Ở đâu cũng thế. Những cây lúa qua thì con gái thì trổ bông, rồi sau làm đòng thì đến lúc chín vàng cho mùa màng ấm no. Bàn tay người nông dân thì là chuyên cần. Họ tăng gia sản xuất nuôi gia đình, nuôi xã hội, lại còn phải nuôi chiến tranh!... Ở nơi đây, người dân hai nước “Sớm sớm chiều nghe tiếng gà gáy cùng…”.

 Họ cùng lấy nước trên một dòng sông chăm tưới cho cây trồng của mình. Lính trên “Chốt” của mình ăn đói, suốt ngày thèm cơm, đôi khi mò xuống Tràng Vinh, Lục Phủ bới trộm khoai sắn, bẻ trộm bắp về luộc ăn. Có cậu bị bắt, bị tước quân tịch đuổi về địa phương. Công việc hàng ngày của lính chốt là trực chiến, là đào hào, sửa sang công sự, nhà cửa. Những cái nhà mà nóc vừa cao bằng mặt đất. Ra vào nhà đều bằng đường hào. Đó là những căn nhà hầm được xây dựng nhằm tránh bom pháo của địch. Mùa đông rét tê tái.

Trên đỉnh non nghe gió rít ngoài trời, nghe cái đói réo ào ào trong bụng, lính gác đôi khi co ro ngủ gật giữa tối đen, bỗng giật mình vì trong sương mù dày đặc bỗng xuất hiện bóng người. “Giơ tay lên”. Bằng phản xạ nhanh như điện, lính gác vừa quát vừa lao về phía bóng đen. Một chú thám báo Tàu vừa chui vào rọ. Lính trẻ được khen thưởng bằng đợt phép về thăm U… Những ngày ở nhà tranh thủ ních cho đẫy tang thình, rồi mấy bữa nữa lên chốt lại ăn lá khoai lang, ăn su hào có xơ vừa ôi thay cơm…

Chúng tôi sau 3 tháng huấn luyện, qua thời kỳ tân binh, được điều về các đơn vị trực chiến. Một cuộc chia tay tuy không bịn rịn như mỗi độ chia tay khi hè về thuở học trò, nhưng cũng là đêm bập bùng tiếng ghi ta, những bài ca vừa “Vàng” vừa “đỏ”. Hát cả những bài chế từ nhạc ngoại “Cầu Bắc Luân làm sao lắm Hoa kiều. Dân Việt Nam không đủ cấp lương ăn…”.

Hiếm khi gặp lại nhau. Biết thế nên ngồi với nhau thâu đêm. Thằng này về vận tải, thằng kia về công binh, thằng về pháo, thằng về thông tin, thằng về tiểu đoàn, lên “Chốt”. Tôi “hên” được về đơn vị thông tin trực thuộc trung đoàn bộ ngay dưới chân điểm cao 313. Nói là hên, là so với bọn phải vào Pò Hèn, Thán Phún, Lục Phủ Tràng Vinh, quanh năm trên chốt, chứ thực ra cũng chẳng sung sướng gì. Bọn trên chốt 404 hay 664 còn nói quần áo giặt cả tuần không khô vì sương mù dày đặc. Nấu cơm không chín vì trên cao áp suất thấp nên nhiệt sôi ở mức 6-70oC.

Chúng tôi phải trải qua một chiến dịch xây dựng hầm hào  quy mô. Lần đầu tiên những hầm chỉ huy được ghép bằng bê tông. Người ta chở những thanh bê tông với những kích thước và trọng lượng khác nhau ra biên giới. Thanh khoằm vừa dài vừa nặng, dùng để ghép phần vòm công sự. Thanh thẳng lòng máng có hai loại, ngắn và dài. Thanh dài nặng 54 kg. Thanh ngắn nhẹ hơn. Mấy cậu lính trẻ vừa rời tuổi học trò, đang tuổi lớn mà thiếu ăn, xanh xao vàng vọt, nhận vác những thanh ngắn, chỉ nặng chừng 30 kg, nhưng phải vác hai thanh mới đủ chỉ tiêu ngày. Bình thường leo đồi hái sim qua những dốc mòn trên sườn núi đã mệt, đôi khi trơn trượt vì sỏi đá, ngã lăn đau điếng. Giờ, cũng trên con đường sỏi trơn đá trượt ấy, trên vai là thanh bê tông mấy chục cân, bằng trọng lượng cả cơ thể nghiến xuống, nhiều cậu cởi áo làm lót vai. Giữa trưa hè bỏng rát, nhiều cậu lính trẻ đã kiệt sức. Giữa lưng chừng dốc, muốn hạ thanh bê tông xuống nghỉ chốc lát cũng không phải dễ, vì hạ xuống rồi khó mà đưa lên vai. Mà không hạ xuống nghỉ thì cái vai đau tức, cái chân thì chồn, cả cơ thể căng ra, run run, tay túm búi sim để giữ thăng băng, trong khi đôi chân chỉ trực khuỵu xuống…

Chúng tôi được lệnh chuyển quân từ căn cứ huấn luyện tân binh xã Hà An ra Hà Cối bằng đường biển. Đến nơi, chúng tôi lội vào đất liền, chờ xe oto tới đón. Chúng tôi cuốc bộ từ Hà An ra bến tàu Quảng Yên mấy cây số. Vùa đi vừa hát “Chiều dài biên giới, dài theo bước chân chúng tôi, những đỉnh núi mờ sương, những sóng vỗ trùng dương…”. Trong hơi sương lạnh giá của buổi sớm tinh mơ, những bước chân lính trẻ được rắn rỏi bước đều, nhờ ca khúc, nhờ tiếng của hai cây guitar bập bùng…

Những ngày xa quê đầu tiên, cái đói, cái rét nơi thao trường, nỗi nhớ…đã không làm nhụt ý chí, mà còn tôi luyện lính trẻ. Những chú lính mà thật ra là những cậu học trò, sau khi từ thao trường về, có ít phút nghỉ ngơi, ngong ngóng chờ tiếng kẻng cơm. Mồm đang nghêu ngao hát, khi nghe kẻng là bật dậy vớ vội chiếc bát B52 trên giá, rảo về phía nhà ăn. “Mâm cơm” cho sáu người được bày trên những giá ken bằng tre, chân làm bằng cột bạch đàn. Hàng ghế ngồi cũng làm bằng cây gỗ tròn đặt trên cọc chôn dưới nền nhà. Xung quay tường tre là những khẩu hiệu “Kỷ luật là sức mạnh quân đội”, “Khi ăn ta nhắc nhở nhau. Ăn đũa hai đầu, giữ vệ sinh chung”.

Nhưng có lẽ vì mải vục bát nén cho thật đầy, hay vì không có bệnh tật nào trong cơ thể của mỗi trai trẻ, nên các chú lính cứ vô tư khua đũa vào “Nồi canh” cố chao cho nhanh mấy cọng rau muống nổi lều bều trong cái nồi được gọi là canh, thực ra là nước suối có ít bột canh và mấy cọng rau. Những lính già có kinh nghiệm hơn, bát đầu vục nhẹ tay, và thật nhanh, bát thứ hai mới nén chặt. Chiến thuật này dù không được phổ biến thành kinh nghiệm, nhưng đám lính trẻ cũng học nhanh và bắt kịp lớp đàn anh cách xuất sắc!...

Thêm hai tháng tân binh, tiếp tục lăn lê bò toài, bắn đạn thật bài một bài hai với bia số bốn, bia di động. Sau thời kỳ lúc làm quân xanh, lúc làm quân đỏ, lính ta da sạm đen vì nắng gió thao trường. Rời những căn nhà xây bằng gạch đất tối om lợp ngói cong đen, mỏng như những chiếc bánh quế do Hoa kiều để lại, giờ là lúc ra tuyến đầu đối mặt với quân địch từ bên kia biên giới. Những đêm nằm ngủ trên võng trong rừng quế, rét run, đi vơ những ngọn quế vừa bị đốn hôm qua, hôm kia đốt sưởi. Lá quế có dầu, chỉ hơi se se đã bén lửa cháy bùng bùng dữ dội. Những thân quế non to bằng bắp chân thẳng tắp bị đốn không thương tiếc. Thân quế được dựng hầm kèo “Hầm chữ A”, chỉ một năm sau là mối mọt hết. Những rừng thông non của lâm trường, rừng quế của dân địa phương bị đốn ngã, tan hoang. Tất cả phục vụ cho quốc phòng. Thời chiến mà lại. Nghĩ thấy xót.

Năm 1981, đơn vị tôi cử người đi phá khu nghỉ mát Trà Cổ. Sau cuộc chiến tháng 2/1979, chủ trương “Lập vành đai trắng” của trung ương áp dụng cho thị trấn Móng Cái, kéo dài tới Khu nghỉ mát Trà Cổ cả chục cây số, qua xã Xuân Lan, Xuân Hải, nông trường Hải Hòa. Để thực hiện chủ trương này, dân thị trấn phải chuyển về Quất Đông, lùi sâu về phía sau 9- 10 cây số. Dưới bến phà Ninh Dương tuy còn dân nhưng thưa thớt. Cây cầu xây bằng đá hoa cương vắt qua sông Kalong giờ nhìn hoang phế. Tất cả dân thường không nhiệm vụ miễn qua lại trên cầu, nhằm tránh địch bắn tỉa từ nóc ngôi nhà cao sát mép sông bên kia biên giới. Bên dưới dọc theo chiều cong của cây cầu là dòng chữ “Tình hữu nghị Việt Trung đời đời bền vững”.

Đây là cây cầu phía Trung Quốc giúp ta xây dựng thời kỳ còn hữu hảo (Hảo hảo tốt tốt). Dòng Kalong vẫn xanh trong. Nước trong vắt tới mức có thể nhìn rõ từng viên đá cuội dưới lòng sông. Nhưng giờ sông cũng chìm trong nỗi buồn cô liêu. Từng dãy phố hoang phế im lìm trong giấc ngủ triền miên. Một chú mèo hoang vừa kêu meo meo vừa giương đôi mắt như hai viên bi ve nhìn người lạ. Một chú cún choai choai cụp đuôi vừa chạy vừa kêu ăng ẳng dù không ai đánh. Được một đoạn xa, chú dừng lại nhìn chúng tôi với vẻ ngờ vực cảnh giác. Trên cánh cửa một ngôi nhà đề dòng chữ “Có thư xin nhét qua khe cửa. Cám ơn!”

Chúng tôi qua bao dãy phố mà không gặp một bóng người. Những căn nhà biệt thự, công sở được xây từ thời Pháp trông vẫn bề thế, dù có hoang phế. Những cánh cửa chớp, cửa kính sơn màu trắng sữa sập xệ, loang lổ vết đạn. Cỏ mọc um tùm trong khuôn viên. Chúng tôi vào một căn nhà được xây theo lối kiến trúc Pháp. Cửa chính đã bị người ta tháo trộm. Nền nhà lát gạch tráng men. Màu men và những trang trí hoa văn không cầu kỳ kiểu Á Đông, song nó dư sức thuyết phục người ta ở tính xa hoa lịch lãm…Một lần đi phà Ninh Dương, tôi nghe một cán bộ quân đội cùng đi trên phà, trong lúc ngắm nhìn dòng sông xanh trong và nên thơ, đã kể rằng, khi ký hiệp định biên giới với triều đình nhà Thanh của Trung Quốc, người Pháp đã kiên quyết từ chối đề nghị của Nhà Thanh muốn nắn đường biên, lấy dòng sông Kalong làm đường biên.

Và nếu đường biên được xác định bởi dòng Kalong chảy qua Ninh Dương thì thị trấn Móng Cái với mấy xã bao gồm cả khu nghỉ mát Trà Cổ, Mũi Ngọc đã không còn thuộc về Việt Nam nữa. (Có thể khi đưa ra đề nghị về đường biên này, Triều đình nhà Thanh cũng đã đưa ra một món lợi không nhỏ cho người Pháp khi đó đang là người bảo hộ VN, nhưng rút cục vẫn bị từ chối!...Một sự kiện đáng để chính người Việt suy ngẫm…). Để đến hôm nay thị trấn Móng Cái với cả dải đất dài hàng chục km tới tận Gót của Trà Cổ, nơi có Núi tổ Chim là phên dậu của biên cương nước Việt như bây giờ, nghĩa là đường biên phân định ranh giới hai quốc gia phải là sông Lục Lầm, một nhánh nhỏ của dòng Kalong phía Bắc thị trấn Móng Cái. Nơi có cây cầu Bắc Luân nối hai bờ VN và Trung Quốc.
....
Ba mươi lăm năm đã trôi qua. Vật đổi sao rời. Đứa bé chạy giặc trên lưng mẹ giờ đã 35 tuổi, đã ở đỉnh của vòng đời. Thị trấn nhỏ bé và thơ mộng khi xưa, nay đã lên thành phố. Có vô số khách du lịch, người buôn kẻ bán ghé thăm thành phố mỗi ngày. Người buôn từ thập phương tới. Có kẻ buôn từ bên kia cầu Bắc Luân sang nữa. Những ngày đầu năm đầu còn thuê phán (phiên) dịch. Nay thì nói tiếng Việt như người Việt. Họ thuê người Việt làm công trả lương. Đa số người thuê là các cô gái trẻ người Việt. Người Trung Quốc tràn sang chiếm lĩnh thành phố, với đủ các ngành nghề kinh doanh, từ đổi tiền tới buôn bán vải vóc, hàng điện tử. Họ thuê những kios, họ bán sỉ, cả bán lẻ. Họ bán thuốc bệnh. Họ kinh doanh karaoke. Họ mở sòng bạc…

Cửa khẩu Móng Cái là của khẩu nhộn nhịp bậc nhất cả nước. Hàng xuất nhập tiểu ngạch, chính ngạch diễn ra náo nhiệt. Nhưng hàng lậu qua các cửa đồn các chú Bộ đội Cụ Hồ mỗi ngày mới là ghê gớm và đáng nói. Báo chí cứ đưa tin về nạn hàng giả hàng lậu. Hàng lậu cứ tuồn vào theo “lộ trình” đã định. Tại km15. một trạm kiểm soát liên ngành được lập ra nhiều năm nay. Bất kỳ chiếc xe khách xe tải nào từ thành phố về xuôi đều phải vào trạm chờ làm thủ tục kiểm tra kiểm soat. Họ làm thật chặt chẻ và gắt gao. Nhưng hàng lậu vẫn ùn đống trong các chợ Việt Nam, từ chợ đầu mối tới chợ lẻ ở hang cùng ngõ hẻm thôn quê. Trạm km15 được lập ra, cũng như muôn ngàn các trạm khác trên lãnh thổ VN, dường như để kiểm soát lượng hàng lậu vào trên mỗi chuyến xe, trong mỗi ngày, mỗi ca, để…

”Làm Luật”, chứ không phải để ngăn chặn buôn lậu, không vì cải thiện tình trạng thâm hụt cán cân mậu dịch trong quan hệ thương mại với ông bạn “Bốn tốt”. Thành phố cổ xưa kia, đã trở thành một đô thị mang tầm vóc của một thành phố hiện đại sôi động. Nơi đất thánh cho bao kẻ nhập cư và trở nên giàu có. Nhưng không vì thế mà có thể quên đi những năm tháng đau thương, nơi ghi dấu tội ác và ý chí quật cường.

Dòng Kalong đang trở nên ô nhiễm…

Feb/16th/2014.
Tác giả gửi Quê Choa

1 nhận xét:

  1. Nặc danh08:45 21/2/14

    Bài viết hay quá, nếu tác giả viết kỹ hơn sâu hơn để những CCB chưa có dịp được đánh Tàu để so sánh với việc lính ta đánh Mỹ ra sao?

    Trả lờiXóa