9 thg 1, 2013

Một hồi ức của CCB Đặng Việt Châu



MỘT VÀI HỒI ỨC CỦA ĐẶNG VIỆT CHÂU, CCB SƯ 356 KỂ TRẬN ĐÁNH CAO ĐIỂM 772 NGÀY 12/7/1984 QUÂN TA HY SINH HƠN 1000 BỘ ĐỘI


Ai đã quên! Nhưng tôi không quên và không thể nào quên…

Cuộc chiến Hà Giang đã qua gần 30 năm rồi. Sư đoàn 356 đã giải thể hơn 22 năm, mỗi người mỗi ngả... còn lại trên mảnh đất Hà Giang 1 nghĩa trang liệt sĩ tại xã Đạo Đức, Vị Xuyên, Hà Giang. Một nghĩa trang mà phần đông là các liệt sĩ sư đoàn 356.(Bởi sự ác liệt của cuộc chiến nên số không có tên cũng không phải là ít)
Người còn sống trở về với cuộc mưu sinh cũng chẳng dễ dàng gì...Di chứng của tháng ngày gian khổ ...
Mặt trận Vị Xuyên Hà Giang sau 12/7/1984 thì thời điểm ác liệt nhất phải là từ giữa tháng 11/1984 đến giữa tháng 3/1985. Giai đoạn này 2 bên tranh giành nhau quyết liệt cao điểm 685 và bình độ 300-400. Ngày đêm không lúc nào ngơi tiếng súng nổ ( trừ mồng 1 tết âm lịch).
Các cụ có tài thao lược mà cán binh ở dưới không giỏi, không tốt, không đồng lòng thì làm sao 356 lấy được 685. Rồi suốt từ 18/12/1984 đến 10/3/1985 thay nhau chốt giữ. Cơm sấy, nước suối, bám đá, đội pháo quên thân, quăng quật ngày đêm để giành giật với thù từng mỏm đá, gốc cây của Vị Xuyên, Hà Giang. Những người lính của sư đoàn 356 đã từng sống và chiến đấu trong những ngày tháng ác liệt ấy. Chúng ta có quyền được tự hào nhắc lại, viết lại, làm rõ hơn cái tốt đẹp, lòng dũng cảm, kiên cường, sự đóng góp và hi sinh không nhỏ của chiến sĩ sư đoàn 356 và đồng đội trong cuộc chiến chống quân xâm lược tại biên giới Vị Xuyên, Hà Giang.

Diễn biến trận 12/7/1984


CCB Đng Vit Châu người ngoài cùng bên trái


4h5 phút có 3 tiếng gõ nhẹ trên máy bộ đàm. Đồng chí Bộ B trưởng thông tin báo cáo: "Lệnh nổ súng". Phía trước mặt, rồi cả thung lũng Nậm Ngặt lửa sáng rực. Tiếng pháo cối, lựu đạn, 12ly7, DKZ, AK...nổ. Mặt đất rung chuyển. Tôi lệnh cho đồng chí Bộ bằng mọi cách liên lạc được với các mũi, hướng, cũng như cấp trên nhưng rất nhiễu, chuyển về sóng phụ cũng không liên lạc được. Tôi lập tức leo lên phía trên đỉnh quan sát nhưng cũng chỉ thấy khói lửa và tiếng nổ của các loại súng. Tai ù đặc mà lòng nóng như lửa đốt bởi không liên lạc nắm bắt được tình hình phía trước của đơn vị cũng như các mệnh lệnh của cấp trên.
6h10 phút, đồng chí Bộ hô to: "Đã chiếm được D3, tiểu đoàn 3 xuất kích"!
Tôi hỏi:"Lệnh của ai"? Đồng chí Bộ trả lời:"Tham mưu trưởng Kham". Tôi lập tức điện gặp đồng chí Lan C trưởng C12 nói rõ hiện ta đã chiếm được D3, địch đang chống trả quyết liệt. Đồng chí cho hỏa lực chế áp trận địa cối của địch sau 772 để thê đội 2 xuất kích. Sau loạt tiếng nổ đầu nòng hỏa lực của ta, tôi ra lệnh toàn đơn vị xuất kích. Các cỡ súng thi nhau nổ. Tiếng hô xung phong vang động cả thung lũng Nậm Ngặt. Xách AK vận động theo đơn vị mà lòng tôi trào lên niềm vui khôn tả. Vượt qua khe Cụt, tới khu vực có hòn Đá Dựng gặp đồng chí Bính trợ lí tác chiến tay cầm súng ngắn đang chỉ huy bộ đội xung phong. Tôi chỉ thẳng lên phía mục tiêu rồi vượt lên phía trước. Lúc này, các cỡ súng của địch tập trung vào hướng chúng tôi. Đạn bay ràn rạt, đất đá tung tóe, cây cối đổ ngổn ngang. Bám vào sườn núi tôi vượt lên một quãng khoảng 15m thì gặp đồng chí Hoa C phó C11 đang ép mình vào rãnh núi. Tôi hỏi Hoa:"Anh Thanh đâu"? Hoa trả lời:"Em bị thương", rồi chỉ tay về phía đỉnh đồi. Tôi vượt lên 7m nữa thì gặp đồng chí Minh C trưởng mình trần máu me bê bết nằm ngất lịm. Tôi ngồi xuống ôm lấy Minh, Minh mở mắt thều thào: "Anh Thanh đã hi sinh". Rồi Minh chỉ tay về hướng đỉnh đồi. Tôi bảo anh em đưa ngay đồng chí Minh xuống và tiếp tục vượt lên. Trước mặt sau lưng, đất đá bay ràn rạt.
‘ Tôi bám được đường ngang lưng chừng D3. Đường này rộng khoảng 2m, cách chiến hào phía trước khoảng 20m. Tôi dừng lại và nhảy ngay vào 1 hố pháo cạnh mép đường. Sương mù dày đặc, cách 5-7m cũng khó phát hiện ra nhau. Anh em thấy tôi thì vô cùng mừng rỡ. Phía trước là C10 có đồng chí Cúc C viên, Hiền C phó, Tiếp xạ thủ B40, Đoan A trưởng...phân đội DKZ đồng chí Thành, đồng chí Quý. Bên cánh phải, đồng chí Toản C viên C11, đồng chí Đích và 1 số anh em khác. Cạnh tôi là anh em D bộ, Tuấn, Thọ, Ba, Kí, Chính, Bộ, Kim, Thanh B trưởng vận tải, Hoan... khẩu đội MK19 đồng chí Lý, Sĩ... Toàn bộ đội hình đã nằm gọn trên khu vực Đầu Voi và sườn phía Nam D3. Lợi dụng sương mù, tôi cho gọi Cúc và Toàn nắm lại tình hình đơn vị. Được biết C11 bị thương vong gần hết, phân đội theo đồng chí Thanh xung phong đánh vào bên phải D3 không liên lạc được. C10 đã chiếm được 1 đoạn chiến hào. Hỏa lực địch bắn thẳng, đã có thương vong, đạn dược không còn được bao nhiêu.
Lúc này, đồng chí chiến sĩ thông tin( mạng của sư đoàn) đi với đồng chí Thanh chạy tới. Tôi hỏi ngay:" Thanh đâu"? Đồng chí đó lắc đầu và chỉ về phía trên đỉnh đồi và báo cáo chỉ huy sư đoàn cần gặp thủ trưởng. Tôi chỉ tay về phía địch nói:" cấm gọi thủ trưởng". Rồi cầm tổ hợp báo cáo trực tiếp tình hình đơn vị với đồng chí Điếm sư đoàn trưởng. Tôi bảo với Cúc và Toản:" hiện nay chần chừ là chết, các anh về cho bộ đội triển khai công sự, giữ chắc khu vực đã chiếm". Tôi gọi pháo cấp trên chi viện, chuẩn bị xung phong...
Anh em C10 dùng lựu đạn ném mạnh về phía trước. Địch tưởng ta xung phong. Các hỏa điểm của địch phát lộ. Xạ thủ B40 cứ nhằm vào mà khai hỏa. Tiếng súng lại rộ lên, đạn bay chiu chíu trên đầu. Sương tan dần, toàn bộ đội hình lộ rõ trên sườn đồi. Bên cánh phải xuất hiện 1 ổ hỏa lực bắn xả vào sườn đơn vị. Đồng chí Cúc chạy xuống báo cáo anh Hiền bị thương xin được rút quân. Tôi nói với Cúc:" bây giờ, chỉ có tiến chứ không có lùi". Cúc khóc và chạy đi...
Địa hình hẹp lại dốc, khẩu đội MK19 không thể triển khai giá súng bắn được. Tôi vẫy tay gọi Lí, rồi chỉ về mỏm đồi phía sau bảo đưa khẩu đội xuống đấy giá súng. Nhằm hỏa điểm phía sườn phải mà bắn. MK19 vừa bắn được một loạt thì:" Bùm". Toàn bộ khẩu đội bị DKZ của địch bắn vào. Tất cả anh em khẩu đội đều hi sinh. Quân địch la hét rất rõ:" Tran trả, tran trả"...
Một loạt rồi hai loạt AK bắn gần, đanh gọn. Tiếng chân địch xô nhau chạy, rồi lựu đạn và các cỡ súng nổ chát chúa, khói bụi mù mịt. Đồng chí Thanh B trưởng vận tải trúng đạn hi sinh. Tôi phẩy tay bảo đồng chí Thọ, đồng chí Bảo y tá đưa Thanh xuống.
Tưởng tôi ra lệnh rút, toàn bộ đội hình của đơn vị theo nhau trượt xuống chân đồi. Tôi cầm lấy tổ hợp trên tay chiến sĩ thông tin báo cáo với đồng chí Điếm:"hiện chúng tôi không đủ sức tiến công, địch đang phản kích rất mạnh, xin pháo bắn ngay vào D3, chỗ tôi đang ở - tôi K3". Đồng chí Điếm hỏi lại:" Đồng chí tên gì"? Tôi trả lời:" Tôi là Châu". Trao tổ hợp cho chiến sĩ thông tin, tôi nói:" hướng đồi xanh-tìm về đơn vị". Nhìn ngược lên đỉnh đồi trống hoác. Đường tiến nham nhở vết đạn. Trận địa lúc này im ắng lạ thường. Tôi như kẻ mộng du, ôm chặt súng. Thả người trượt xuống chân đồi...
Địa hình hẹp lại dốc, khẩu đội MK19 không thể triển khai giá súng bắn được. Tôi vẫy tay gọi Lí, rồi chỉ về mỏm đồi phía sau bảo đưa khẩu đội xuống đấy giá súng. Nhằm hỏa điểm phía sườn phải mà bắn. MK19 vừa bắn được một loạt thì:" Bùm". Toàn bộ khẩu đội bị DKZ của địch bắn vào. Tất cả anh em khẩu đội đều hi sinh. Quân địch la hét rất rõ:" Tran trả, tran trả"...
Một loạt rồi hai loạt AK bắn gần, đanh gọn. Tiếng chân địch xô nhau chạy, rồi lựu đạn và các cỡ súng nổ chát chúa, khói bụi mù mịt. Đồng chí Thanh B trưởng vận tải trúng đạn hi sinh. Tôi phẩy tay bảo đồng chí Thọ, đồng chí Bảo y tá đưa Thanh xuống.
Tưởng tôi ra lệnh rút, toàn bộ đội hình của đơn vị theo nhau trượt xuống chân đồi. Tôi cầm lấy tổ hợp trên tay chiến sĩ thông tin báo cáo với đồng chí Điếm:"hiện chúng tôi không đủ sức tiến công, địch đang phản kích rất mạnh, xin pháo bắn ngay vào D3, chỗ tôi đang ở - tôi K3". Đồng chí Điếm hỏi lại:" Đồng chí tên gì"? Tôi trả lời:" Tôi là Châu". Trao tổ hợp cho chiến sĩ thông tin, tôi nói:" hướng đồi xanh-tìm về đơn vị". Nhìn ngược lên đỉnh đồi trống hoác. Đường tiến nham nhở vết đạn. Trận địa lúc này im ắng lạ thường. Tôi như kẻ mộng du, ôm chặt súng. Thả người trượt xuống chân đồi...
Sáng ngày 13/7, khoảng 8h sáng, Hoan từ trên đỉnh hang tụt xuống báo với tôi:" Địch bên D3 đông lắm". Tôi cùng Hoan leo lên quan sát bên ấy địch cũng đang thu dọn chiến trường, có cả mấy em quần trắng áo đỏ phất phới. Hoan giương súng đòi bắn, tôi chỉ xuống anh em thương binh tử sĩ ở phía dưới. Hiểu ý, Hoan kéo khóa an toàn khẩu súng, rồi im lặng nhìn sang phía địch. Tôi tụt xuống đến hầm của Bính. Lúc này, Bính đang ngồi cạnh võng của Đa B trưởng C10 bị thương ở bụng, được băng bó nhưng ruột cứ trào ra. Đa quằn quại, thở rất mệt nhọc. Tôi cho dùng bát ăn cơm đậy và tiếp tục băng lại. Quá trưa thì Đa tắt thở. Ở hầm thông tin, có chiến sĩ bị thương phần bụng dưới ngày càng phình to lên, đau đớn quằn quại, cứ xin được chết. Tôi nói với Bảo y tá:" Có thể chọc xi-lanh vào mà hút nước tiểu ra". Bảo lắc đầu quầy quậy:" Chưa được học". Đau đớn, mệt mỏi, đói khát. Tôi không đành lòng nhưng cũng không làm gì được... Thời gian nặng nề trôi, rồi trời cũng tối. Khoảng 19h, có thêm đồng chí Long C phó C16 đến bắt liên lạc xin được giúp đỡ. Tôi bảo Hoan và Bộ ở lại canh gác và chăm sóc anh em. Còn tôi cùng với Long đi đến trận địa của C16. Trên đường vào gặp xác các tử sĩ Tiến, Công và 2 tử sĩ của C16. Chúng tôi đặt anh em nằm vào chỗ bằng, rồi đánh dấu. Sau đó vào khu vực hòn đá Dựng với niềm tin mong manh sẽ gặp được Thanh, Minh. Trên D3, chốc chốc địch lại ném lựu đạn. Phía ngoài chỗ tiếp giáp giữa 772 và 685, địch bắn pháo sáng, sáng rực. Khoảng nửa đêm, chúng tôi quay trở về hang thì bộ phận cáng thương của Trung đoàn do đồng chí Hồng, đồng chí Vị; của Tiểu đoàn do đồng chí Tình bí thư đoàn, đồng chí Châu trợ lí hậu cần cũng vừa đến. Lúc này anh em mới tin rằng tôi còn sống...

Comment:
Nặc danh 05:20 Ngày 09 tháng 1 năm 2013

Xin ghi lòng tạc dạ sự hy sinh vô giá của những người lính ngày ấy.

Cách đây mấy hôm vô tình tôi được nói chuyện với một cựu chiến binh người Hà Bắc đã từng đóng quân trên biên giới Lạng Sơn những năm 1982-1986 là thời điểm cả nuớc ta vô cùng gian nan, gian khổ về mọi mặt. Giờ giữa cuộc sống đời thường anh làm công việc của một nhà nông: đồng ruộng cấy hái, chăn nuôi và trồng trọt thêm rau cỏ. Các con anh thấm thía những lời bố dạy: đời bố lúc còn trẻ đã dành trọn tuổi xuân trong những tháng năm quân ngũ vào thời kỳ cả nước gian khổ, và khi xuất ngũ trở về cũng đã ngoài 20,việc học cũng đã lỡ dở do bị gián đoạn , hơn nữa phải tham gia lao động sản xuất để kiếm sống nên cũng không còn tâm trí gì mà nghĩ tới chuyện học hành nữa,vì vậy các con phải luôn cố gắng sống cho xứng đáng với sự hy sinh của bao người để giữ được hoà bình cho nước Việt Nam có được như ngày hôm nay.Những niềm mơ ước học hành của anh thuở nào bị cuộc chiến tranh biên giới phía bắc phũ phàng dập tắt và dập vùi khi anh bước vào tuổi 18- lứa tuổi đầy mơ mộng về tương lai tươi đẹp, nay đã được các con anh tiếp tục nối lại, thắp sáng và đốt cháy bùng ngọn lửa về niềm mơ ước một thời trai trẻ được học hành nhưng đã bị lỡ dở của nhiều người lính của thế hệ những năm 1980 thuở ấy: Các con anh đều biết vượt khó, cố gắng học giỏi và nay đang là sinh viên những trường đại học có danh tiếng.Đấy chính là sự đền đáp công ơn của thế hệ con cháu và là phần thưởng vô giá cho những người lính hy sinh tuổi xuân, tương lai phía trước để bảo vệ Tổ quốc trong chiến tranh giữ nước vĩ đại.Anh cũng kể hầu hết các đồng đội anh sau khi xuất ngũ về đã lao động để kiếm sống vì vào thời kỳ ấy khó có điều kiện mà học hành.Tuy đã gần 30 năm trôi qua nhưng trong ký ức anh chiến trường Lạng Sơn vẫn hiển hiện như năm nào mà khi ấy anh vừa 18 tuổi. Mùa đông rét mướt của miền xuôi khiến anh bất chợt rùng mình mỗi khi nhớ đến cái rét cắt da cắt thịt của gió mùa đông bắc tràn về nơi miền ngược ,kéo theo cái lạnh giá buốt tái tê lùa từng đợt ,hơi băng lạnh buốt ùa ra từng đợt từ vùng núi âm u đầy sương mù bao phủ.Lúc ấy đang thời kỳ xuân trẻ nên sức khoẻ tốt cố gắng cắn răng chịu cái lạnh trong điều kiện thiếu thốn ăn mặc.Cả ngày các anh phải mang vác vận chuyển hết sức nặng nhọc những tấm bê tông nặng tới 45kg lên địa hình núi dốc để làm hầm trú ẩn.Khi hành quân phải mang vác ba-lô, vũ khí nặng trĩu vai gầy ,leo trèo qua những địa hình núi non dốc ngược hiểm trở tới cả hai chục cây số để làm quen với gian nan, rèn luyện thể lực.Hàng ngày các anh phải sống trong hầm làm trong núi, hang đá chật chội, ăn cơm bằng gạo sấy không được nấu nóng, thức ăn chẳng có gì.Điều kiện gian khổ như thế nhưng lúc nào cũng nơm nớp lo thằng tàu tấn công bằng pháo, đột nhập bất thình lình.
Anh kể có những chiến sĩ đang đi hoặc đang vác bê tông nặng bất ngờ bị tàu bắn pháo hay vướng mìn,trong tích tắc thân thể nổ tung nát tan bay tứ tung làm nhiều mảnh...khiến đồng đội đau thương vô tận.Có lần bọn tàu bắn pháo sập hầm hy sinh 8 bộ đội, mà nguy hiểm ở chỗ cứ chỗ nào có hầm trú ẩn của bộ đội mình là pháo tàu nó bắn trúng chỗ đó.Thì nghe nói hồi trước bác nào tận trên trung ương đã nhờ tàu in bản đồ, nó không biết các toạ độ mới là điều lạ, thảo nào cứ chỗ nào có hầm bên mình nó không bắn trúng mới là lạ!Anh còn kể có trận bọn chúng tràn sang nhiều như vãi trấu, trong lúc nguy ngập ấy các cố vấn Liên -Xô đã mưu cao đánh cho sập cầu , bọn giặc thấy thế bèn rút về chen nhau tháo chạy bơi qua sông, lúc ấy các cố vấn mới lệnh thòng điện xuống lòng sông khiến giặc cỏ bị điện giật chết như ngả rạ , gây tắc cả một khúc sông Kỳ Cùng. Bọn giặc Tàu ô ác tày trời còn giết bao nhiêu phụ nữ ,trẻ em và bắt đi của ta rất nhiều phụ nữ, thanh thiếu niên đem sang Tàu ...Một thời trai trẻ chiến chinh làm bạn cùng sương gió nơi biên cương núi rừng phía bắc của anh tràn đầy những dòng ký ức dạt dào tuôn chảy.Màn đêm buông ngập xuống nơi làng quê yên ả khiến cả không gian bao phủ một màu tối sẫm.Những thanh niên trẻ tuổi nô nức đi chơi tối,dạo bước trong khung cảnh cuộc sống làng quê về đêm yên ả, mà trong số họ liệu có ai biết rằng người cựu chiến binh đứng bên hè đường kia đang đắm chìm trong suy tư giữa thực tại thanh bình với quá khứ dữ dội của thời trai trẻ gian khổ mà hào hùng đã lùi xa cách đây gần 30 năm.Tuổi trẻ lúc ấy và tuổi trẻ bây giờ.Đất nước thời chiến và Tổ quốc thời bình. uộc sống gian khổ nếm mật nằm gai của tuổi trẻ cách đây gần ba thập kỷ để giữ gìn hoà bình cho dân tộc với cuộc sống thanh bình , cơm no áo ấm , tương lai tươi sáng của tuổi trẻ hiện tại. Sau một mùa đông giá băng ảm đạm, sẽ là một mùa xuân sáng tươi với bao mầm cây xanh non mang tới sự sống đâm chồi , và ngàn hoa đua nhau nở. Xin ghi lòng tạc dạ sự hy sinh vô giá của những người lính ngày ấy đã sống chết trong khó khăn gian khổ để bảo vệ Tổ Quốc, bảo vệ nhân dân khiến cho những rừng hoa hoà bình,mầm xanh non của sự sống Việt Nam mới đâm chồi nảy lộc được như ngày hôm nay...

Honngv:   
Mình vào lính năm 1975. Năm 1980- 1981 mình fải trực chiến tại Lạng Sơn, với cương vị Tiểu đoàn fó, trực tiếp chỉ huy và huấn luyện 1 trung đội lính công binh (vì gắn với kỹ thuật) đặc trách cách đánh mìn bằng điều khiển nổ từ xa. 1 thằng bạn thì trực ở Cao Bằng. Tất nhiên nếm đủ mùi gian khổ của chiến trường và cái rét vùng biên fía bắc. 1 chú lái xe, trên đường chở bọn mình đi công tác đã thiệt mạng ngay cầu Tiên Yên. Mình lên tận sát đường biên thấy cảnh lính ta cõng bê tông làm hầm trú ẩn như Nac danh đã kể. Họ đâu có biết họ là những sen-so sống, là lớp cảnh báo đầu tiên trên biên giới. Lúc đó quần áo rét rất ít, dày thì không. Mình mượn được đôi ủng cao su, ngồi sưởi cháy cả mõm.
Sau, suốt quá trình công tác không bao giờ có ai nhắc đến những ngày gian nan ấy, cho tận lúc về hưu cũng chẳng có quyền lợi gì (vì nếu tham gia như vậy trong CT chống Mỹ thì đc hưởng chế độ chiến trường). Thật nhục nhã và bất công.              

8 thg 1, 2013

Mệt mỏi



Võ Trung Hiếu

Mệt mỏi …
Vì mưa nắng, kẹt xe và khói bụi
Vì những đường phố cứ mãi đông nghịt người
Vì những ” cắt trĩ mạch lươn”, ” khoan cắt bê tông ” dán đầy cột điện
Vì những tờ bướm tiếp thị ngoa ngoắt vứt đầy khắp nơi

Mệt mỏi …
Vì các em teen xinh xắn bây giờ hơi tý là chửi thề cong môi
Vì những trận bóng đá kịch cọt sặc mùi bán độ
Vì bọn MC và gameshow ngày càng loạn ngôn nhí nhố
Vì lên tivi chém gió với anh Lê Hoàng lúc nửa khuya tự dưng thành mốt thời trang
Vì các sao showbiz sau khi còm cõi tài năng chỉ còn cách khoe hàng
Hâm lại những trò vui rẻ tiền đã nhạt

Mệt mỏi …
Vì lương cứ mãi ì à ì ạch
Vì phí gửi xe và tiền gas-điện vừa tăng gần gấp đôi
Vì tiền tiết kiệm cứ lặng lẽ theo lạm phát bốc hơi
Vì ngân hàng và bất động sản ế ẩm suốt ngày a lô léo nhéo chào mời
Vì bao câu hỏi nhói lòng chưa có hồi âm từ nghị trường quốc hội
Vì nước xuất khẩu gạo hạng nhất hành tinh mà dân vẫn còn người đói
Vì các quan thời nay trình độ thanh minh thanh nga quá giỏi
Vì ” dân trí thấp”, vì thằng ” khách quan “…

Mệt mỏi …
Vì những promotion, report, deadline
Cuộc đời này chẳng lẽ chỉ toàn mua với bán ?
Nếu loài người chỉ biết ăn xong rồi vứt đũa chạy ùa đi săn lợi nhuận
Ai hơn ai thiệt ai lỗ ai lời ?
Hành tinh này liệu sẽ còn có một tương lai ?

Mệt mỏi …
Vì khẩu hiệu kiểu Liên Xô từ tivi cứ ong ỏng nhét vào tai
” Đẩy mạnh” cái này, ” phát huy ” cái nọ …
Xin lỗi các vĩ nhân !
Nếu các ngài biết vừa nói vừa làm
Thì đất nước đã không nghèo khó
Thì con cháu chúng ta không cần è lưng trả nợ
Và niềm tin đã không thêm một lần tan vỡ …

Mệt mỏi …
Vừa sống vừa lo vừa buồn vừa sợ
Vì chả biết dúi niềm tin và hy vọng vào đâu
Từng sợi tóc ưu tư ngả bạc trên đầu
Ngày qua áo cơm quay vòng nhạt thếch

Mệt mỏi …
Vì mỗi ngày vẫn phải có đôi lần diễn kịch
Có khi vì mình, có lúc vì người
Ngơ ngẩn mềm lòng, chiếc mặt nạ đánh rơi
Đành đứng lặng cho người đời ném đá

Mệt mỏi …
Thêm một lần vấp ngã
Liệu ta còn buồn đứng lên ?

23.11.2012
VTH
Cọp từ quechoa

7 thg 1, 2013

Ði tìm một biểu tượng cho Việt Nam thời XHCN


Sunday, January 06, 2013 3:33:54 PM

Tạp ghi Huy Phương

Hễ nói đến chiếc lá phong màu đỏ Mùa Thu là người ta nghĩ đến quốc kỳ Canada, hay nói đến con Kangaroo thì không ai còn lạ đó là biểu tượng của nước Úc. Rồi hoa anh đào phải chăng là hình ảnh của nước Nhật, Vạn Lý Trường Thành là hình ảnh của Trung Hoa, nhìn tháp Eiffel người ta nghĩ đến nước Pháp. Còn nói đến cái búa, cái liềm màu đỏ máu thì khó quên Liên Xô cũ và các chư hầu của nó. Còn bao nhiêu biểu tượng trên thế giới này đã gắn liền với tên tuổi của những đất nước ấy.

Từ lâu đã có nhiều người muốn đi tìm một hình ảnh nào đó có thể làm biểu tượng cho đất nước Việt Nam thời Cộng Sản độc đảng. Làm sao để khi nhìn thấy nó thì người ta nghĩ đến VNCS, mà nói đến VNCS thì phải liên tưởng ngay đến “cái đó”.

Ði tìm cái gì quý giá, độc đáo nhất của Việt Nam thường đem ra phơi bày ở nước ngoài, thì ra đó là món “duyên dáng Việt Nam,” như lãnh tụ Cộng Sản đã từng hãnh diện khoe “con gái Việt Nam đẹp lắm!” Vậy nói đến đất nước ấy bây giờ, người ta không thể không nghĩ đến món “đặc sản đàn bà”.

Các viên chức ngành du lịch Việt nam đang cãi nhau về chuyện quảng cáo cho du lịch, ai cũng than không có ngân quỹ để quảng cáo cho ngành du lịch. Ông Nguyễn Mạnh Cường, phó tổng cục trưởng du lịch Việt Nam, cho rằng cần có tiền thêm để quảng cáo, cục này đã bỏ $50,000 chỉ để làm một đoạn phim chiếu ở Pháp. Ông Vũ Thế Bình, một cựu nhân viên, cũng của cục này, nhắc lại là đạo diễn Việt Nam quá kém, nên đã bỏ ra $50,000 thuê Trung Quốc làm một đoạn phim 10 phút chiếu tận Bắc Kinh. Ông Nguyễn Ðức Quỳnh ở Ðà Nẵng thì sang tận Singapore bỏ $60,000 thuê làm mấy đoạn phim ngắn. Một hình ảnh trong các đoạn phim này là hai cô thiếu nữ Việt Nam mặc “bikini” tên bãi biển, món “câu khách” cổ điển.

Trong khi người ta than phiền thiếu tiền làm quảng cáo thì thực tế là theo tài liệu của Tổng Cục Du Lịch, chỉ trong 9 tháng đầu của năm 2012 Việt Nam đã có 4.85 triệu lượt khách ngoại quốc, nhiều nhất là khách Nam Hàn, tăng 53%, khách Singapore, tăng 49%, Nhật 32%, Mỹ 26%, Úc 20%... Chỉ nói đến khách quốc tế, mục tiêu của thành phố Hà Nội trong năm 2013 là sẽ thu hút 2.25 triệu lượt khách, năm 2015 sẽ là từ 7 đến 8 triệu, năm 2020 là từ 11 đến 12 triệu. Doanh thu từ du lịch sẽ đạt $18 đến $19 tỷ năm 2020.

Một đất nước trộm cắp hoành hành, cướp giật như rươi, ăn mày và kẻ bán hàng rong bám sát khách như đĩa đeo, giao thông thiếu an toàn, chỉ có 91 triệu dân (2012) mà mỗi năm có đến 4, 5 triệu lượt khách ngoại quốc vào, kể cũng lạ. Thực sự là chưa nghe ai tố cáo Việt Nam có sex-tour, nhưng đến Việt Nam tìm một cô gái “tàu nhanh” hay qua đêm còn dễ hơn đi tìm một ổ bánh mì thịt ngoài hè phố.

Chuyện bán dâm bây giờ không còn là chuyện gì bí mật, nhạy cảm phải tránh né nữa. Nó “lền khênh” như những chiếc xe gắn máy trên đường trong giờ tan sở. Ngày xưa chỉ có giới thất học, nghèo hèn mới sa cơ vào nhà thổ, giấu biệt gia thế để khỏi nhục nhã đến tông môn, họ hàng. Ngày nay, người ta đánh giá con người qua bề ngoài, đua nhau xe đẹp, nhà sang, điện thoại xịn, áo quần, mỹ phẩm cao cấp, nên đồng loạt đàn bà vào trận. Báo chí Việt Nam đã nhiều lần nêu đích danh những diễn viên điện ảnh, người mẫu, ca sĩ, hoa hậu, sinh viên trường múa, không có “tước hiệu” gì thì cũng là sinh viên, học sinh.

Một xã hội chỉ nhắm vào việc khai thác thân xác đàn bà để kiếm tiền, càng có nhiều cuộc thi hoa hậu bao nhiêu, xã hội càng có nhiều ứng viên, tước hiệu để hành nghề chừng ấy.

Ðó là hình ảnh của những thành phố lớn ở Việt Nam.

Ra ngoại ô, “trên những nẻo đường Việt Nam, suốt từ Nam Quan cho tới Cà Mau...” có tắm khoáng ở Ba Vì, cà phê đèn mờ ở Mạo khê, Quảng Ninh, hớt tóc thanh nữ ở Saigon, mãi dâm trá hình hay mãi dâm công khai thì không chừa một thành phố nào, từ đất Cảng (Hải Phòng) cho đến đất Mũi (Cà Mau). Những vùng đất ruộng đồng, sông rạch thanh bình, chơn chất ngày trước đã “thay da đổi thịt” bằng võng ôm, chõng ôm, tắm ôm và đàn bà trở thành một thứ mua vui ở đâu cũng có. Ðất nước này đã từng rêu rao “ra ngõ gặp anh hùng,” không biết có đúng không, chứ bây giờ ở Việt Nam, ra đường, chắc chắn đi đâu cũng được gặp “gái mời!”

Ðã bao nhiêu gia đình Việt kiều Mỹ, Úc, Canada... đổ vỡ vì đòn chiêu dụ của gái Việt Nam, nhiều người dở khóc dở cười vì muốn trở về Việt Nam cưới vợ.

Ðàn bà Việt Nam giá rẻ, đó là nhận xét của đám đàn ông Trung Cộng sang Việt Nam kiếm vợ. Theo bài báo “Tại sao trai Trung Cộng ngày càng thích con gái Việt Nam?” đăng trên tờ Tân Hoa Xã, chỉ cần có vài trăm triệu, nam giới nước này đã có thể lấy được cô vợ Việt xinh tương đối, mà với số tiền này, chưa chắc đã qua được cửa nhà những cô nàng Trung Cộng trung bình. Theo đó, bài báo “khen” con gái Việt với vô số mỹ từ: Có thân hình chuẩn và xinh đẹp, mùi thơm, da trắng, chân thực, ít chưng diện, đi nhẹ, nói khẽ, cười duyên...

Con gái Việt Nam từ thời mở cửa, đã lên cơn sốt bỏ quê hương chân lấm tay bùn đi lấy chồng ngoại quốc. Không chỉ các cô gái mới lớn, giấc mơ đổi đời lấy chồng ngoại đã đành, nhiều bậc cha mẹ sốt ruột, tìm cách chạy tiền xã, ấp để sửa lại khai sinh, hộ khẩu, chứng minh nhân dân, nâng tuổi con gái cho đủ 18 để kịp ra đi lấy chồng Nam Hàn, Ðài Loan hay Trung Cộng như ngày xưa thiếu niên khai gian tuổi để tòng quân giết giặc! Hiện tượng này đã khiến xảy ra những buổi coi mắt, kén vợ mà số ứng viên lên đến 161 người, vào ngày 3 tháng 11, 2008 tại Sài Gòn, một con số không nhỏ, chủ yếu là từ Ðồng Bằng Sông Cửu Long.

Theo số liệu của Nam Hàn số cô dâu Việt là 7,636. Từ năm 2003, chúng ta đã có 11,358 cô gái đi lấy chồng Ðài Loan. Theo thống kê của Bộ Công An con số các cô gái Việt sang Trung Cộng lấy chồng không đăng ký kết hôn, tỉnh Lạng Sơn có khoảng 4,800 người, Hải Dương 4,600, tỉnh Thái Bình 4,200... và họ đã đưa hàng trăm con lai về Việt Nam.

Nhưng sự thật con số còn lớn hơn nhiều. Trong thời gian từ năm 1995 đến 2003, tính chung cả nước đã có 60,000 thiếu nữ đã được cho phép xuất ngoại lấy chồng. Mặt khác, theo con số được đưa ra cách đây vài năm ông Gow Wei Chiou, đại diện Ðài Loan ở Hà Nội, đã xác nhận có 100,000 cô gái Việt bị bán hay được gả hợp pháp sang nước ông. Con số do Hội Liên Hiệp Phụ Nữ đưa ra, cũng có khoảng 28,000 cô gái đi lấy chồng Nam Hàn.

Việt Nam từ thời lập quốc đến giờ chưa bao giờ phụ nữ bị hạ phẩm giá như một món hàng rao bán rẻ tiền như ngày hôm nay và nhà hàng “Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam” đang quảng cáo món “đặc sản” đàn bà tận tình.

Nếu muốn đi tìm một biểu tượng cho cái đất nước thời đốn mạt này, có lẽ không gì hơn là hình ảnh người đàn bà khốn khổ Việt Nam. Một chiếc lá tượng trưng cho thân thể đàn bà, chiếc lá nho có vẻ phương Tây, thì ta dùng hình ảnh chiếc lá đa cho đượm màu dân tộc vậy!

Giữa thua và thắng


December 28, 2012 By Alan Phan 300 Comments

BLOG CỦA ALAN NGÀY THỨ BẨY 29/12/2012

Gần đây, trên mạng Net của các cộng đồng Việt Nam, người ta bàn luận nhiều về cuốn sách “Bên Thắng Cuộc” của nhà báo Huy Đức. Tôi không có ý kiến vì đây chưa phải là một tài liệu lịch sử theo chuẩn mực của khoa học (cần nhiều soi mói và điều nghiên hơn). Nhưng chữ “người thắng cuộc” mà tác giả dùng vẫn là một thể hiện của suy nghĩ cổ điển.

Qua 10 ngàn năm của lịch sử nhân loại, khi cuộc chiến chấm dứt, kẻ chiến thắng thường được phép hôi của, hiếp phụ nữ, bán trẻ con, cầm tù bại quân và nhục mạ mọi văn hóa tàn tích của nhửng phe thua cuộc. Nói chung, kẻ thắng thường có nhiều chiến lợi phẩm và huân chương, tạo nên một động lực mạnh mẽ cho các cuộc chiến tiếp theo.

Lần đầu tiên trong lịch sử, một nghịch lý hiện diện sau 1975. Cuộc sống của 95% người thua cuộc sau vài năm (phải lang bạt kỳ hồ khắp năm châu) lại sung túc về vật chất gấp 10 lần 95% những người thắng cuộc. Chưa kể đến những thỏa mãn khác về tinh thần như tự do, chất lượng giáo dục, môi trường sống và tương lai con cháu…hay thế đứng trong xã hội.

Trong khi những người thua cuộc ổn định với đời sống của nhiều thế hệ và có thì giờ tạo dựng một văn hóa mới cho Việt Nam, phe thắng cuộc vẫn loay hoay tìm lối ra trong cái đầm lầy họ tự đào. Sau 30 năm chiến tranh và 38 năm xây dựng xã hội trong hòa bình, nhiều chuyên gia tiên đoán là phe thắng cuộc sẽ cần hơn 40 năm nữa để bắt kịp cuộc sống hiện tại của Thái Lan.

 Tôi nghĩ chúng ta nên suy nghiệm thêm về danh từ thua” và “thắng”?
 
Cọp từ Alan Phan bkog

5 thg 1, 2013

Vài suy nghĩ về “Bên Thắng Cuộc” của Huy Đức


Vũ Ánh / 03-01-2012

Vài dòng về tác giả: Tên thật là Vũ Ánh, sinh năm 1941, còn có bút hiệu khác là Vũ Huy Thục. Trước năm 1975, từ 1964 phục vụ tại Hệ Thống Truyền Thanh Quốc Gia đến sáng ngày 30-4-1975, với các chức vụ: phóng viên mặt trận 7 năm, rồi trưởng phòng Bình Luận, Chánh Sự Vụ Sở Thời sự Quốc tế và Quốc nội cho đến 10 giờ sáng 30-4-1975. Ngoài ra, tác giả còn cộng tác với các nhật báo Dân Ý, Báo Đen và Sóng Thần vào những năm chiến tranh.

Sau 30-4-1975, đi tù cải tạo dưới chế độ Cộng sản 13 năm, trong thời gian này bị nằm “chuồng cọp” mất 5 năm liên tiếp vì chống lại chế độ lao tù và ấn hành tờ Hợp Đoàn (báo chui trong trại giam). Được thả về gia đình với 5 năm quản chế, mưu sinh bằng lao động chân tay cho đến khi được định cư ở Mỹ theo diện HO năm 1992.

Sang Mỹ, tác giả trở lại nghề báo và truyền thông: Nhật báo Viễn Đông Kinh Tế Thời Báo (TTK), Nhật Báo Người Việt (TTK và Chủ Bút), cộng tác với nhật báo Việt Herald. Đồng sáng lập đài Văn Nghệ Truyền Thanh (VNTT), Việt Nam California Radio (VNCR) và làm việc ở đó 10 năm, cộng tác với Đài Truyền Hình SBTN, hiện cộng tác với Tuần báo Sống, trong vai trò Cố vấn Biên tập.

Gặp Huy Đức nhân một bữa tiệc tại nhà một người bạn. Chúng tôi có trao đổi một vài câu chuyện. Đây là lần đầu tiên tôi gặp anh dù rằng trước đó tôi thường đọc những bài của anh trên blog Osin, có nội dung chỉ trích chế độ rất khéo léo và suy nghĩ sâu sắc. Huy Đức sang Mỹ theo một chương trình nghiên cứu của Đại học Harvard, một đại học hiện có khá nhiều sinh viên từ Việt Nam qua theo học. Câu chuyện trao đổi liên quan đến nội dung một tác phẩm, đó là “Bên Thắng Cuộc”. Tôi có nói với Huy Đức là đề tài mà anh đề cập tới rất tế nhị và anh sẽ phải đi dưới hai lằn đạn. Bởi vì viết những gì dù dựa trên sự thật mà bên thắng cuộc không thích, anh cũng sẽ “lãnh đủ” và viết ra những gì mà chỉ một số người bên thua cuộc không thích, anh cũng sẽ bị biểu tình và họ sẽ lôi gốc gác của anh ra mà xỉ vả. Lý do rất dễ hiểu: Kể cả bên thắng cuộc và bên thua cuộc đều vẫn còn nhiều người chỉ thích “uống nước đường” chứ không thích người nào nói sự thực hay chứng minh đó là sự thực.
Ít lâu sau tôi nhận được tập bản thảo “Bên Thắng Cuộc” của Huy Đức và tập bản thảo dù dầy đến 680 trang, tôi vẫn đọc một cách cẩn thận và có ghi chú. Tôi kết thúc trang cuối cùng vào đúng lúc Đài BBC đưa ra bản tin phản ứng của độc giả đối với “Bên Thắng Cuộc”, ủng hộ cũng như chỉ trích, phần lớn đều rất lịch sự. Tôi nghĩ chỉ cần phản ứng lịch sự là được rồi, dù phản ứng bao gồm cả những lời chỉ trích, bởi vì chỉ trích lịch sự, ôn tồn ở cái đất này giống như lá mùa thu.
Cảm tưởng của tôi đối với “Bên Thắng Cuộc” của Huy Đức: Lần đầu tiên tôi được đọc tác phẩm của một nhà báo trẻ trong nước viết với giọng văn bình thản, cố tránh những tĩnh từ vô ích, trích dẫn có cân bằng và đối chiếu thận trọng. Mặc dù nội dung tác phẩm còn nhiều khiếm khuyết khi Huy Đức viết về phần bên thua cuộc, nhưng ở vào thế hệ của anh không thể tránh những lỗi này được và điều này theo tôi cũng không có gì là “big deal” vì anh vẫn còn đầy đủ cơ hội hiệu đính lần xuất bản sau. Nhưng tại sao lại là “Bên Thắng Cuộc” mà không là “Bên Thắng Trận”? Nguyễn Giang, trưởng ban Việt ngữ của Đài BBC cũng đã có những thắc mắc này và tự lý giải nó bằng một tự nhủ:
“Khi đọc bản thảo ‘Bên Thắng Cuộc’ (cả hai tập), tôi băn khoăn không hiểu vì sao Huy Đức không đặt tựa cho sách là ‘Bên Thắng Trận’ với tất cả sự oai hùng, hào khí cách mạng như truyền thông chính thống vẫn nêu. Có phải trận chiến quân sự và ý thức hệ dù lớn lao đến đâu cũng chỉ là một cuộc cờ vì trận chiến vì tâm hồn và tương lại Việt Nam vẫn chưa chấm dứt?”.

Tôi cũng có những thắc mắc giống như ông Nguyễn Giang, nhưng tôi tự lý giải theo cách nhìn khác. Trong một trận banh, tỷ số các bàn thắng bại được ghi ngay trên bản và được dứt khoát quyết định, bên bị loại không thể thể giải thích “tại”, “bị” hay “do… mà tôi thua”. Nhưng cuộc chiến Việt Nam là một cuộc chiến rất phức tạp. Những người Cộng sản Miền Bắc tấn công Miền Nam Việt Nam trước và dưới cái nhãn “giải phóng và thống nhất đất nước”. Miền Nam Việt Nam chống trả dưới cái nhãn khác, đó là “tiền đồn của thế giới tự do”. Cả hai bên lao vào một cuộc huyết nhục tương tàn với súng đạn hai bên chẳng do người Việt Nam sản xuất. Chúng đến từ Nga, Tầu và Mỹ. Hai bên cứ thế mà lao đầu vào chém giết nhau, trong khi ở các bàn hội nghị quốc tế, những siêu cường thương lượng về ảnh hưởng của họ trên núi xương sông máu của nhân dân cả hai miền Nam Bắc. Đó là lý do tại sao những người thức tỉnh nhận ra “cuộc cờ” khốn nạn ấy mà những người nắm quyền lưc hiện nay ở Việt Nam không nhận ra? Huy Đức đã ghi ở trang đầu của cuốn sách một nhận định ngắn ngủi của Nguyễn Duy nhưng đầy ý nghĩa “Suy cho cùng trong mỗi cuộc chiến tranh, bên nào thắng thì nhân dân cũng bại”. Tôi cho rằng những suy tưởng này chính là lý do khiến Huy Đức không dùng tựa đề bên thắng trận mà dùng tựa đề “Bên Thắng Cuộc”. Chỉ cần dùng tựa đề này, Huy Đức cũng đã can đảm rồi. Cậu bé chăn trâu ở một làng quê nghèo ở Hà Tĩnh ngày nào nay đã thành danh trong nghề nghiệp báo chí với cái tên blogger Osin đang cố gắng giữ sự tỉnh táo bằng cách học hỏi và nghiên cứu tại một trường đại học nổi danh ở Mỹ là trường Harvard. Cuộc nghiên cứu chỉ kéo đài có một năm thôi, nhưng tôi tin rằng ở ngôi trường vốn là mẫu mực cho nền tự trị đại học và suy nghĩ tự do ấy đủ để cho những người bảo thủ phải thay đổi suy nghĩ của mình hay ít ra là cũng làm mới lại suy nghĩ mà họ đã có từ trước.
Tôi muốn nhắc lại ở đây một điều đã quá cũ, nhưng vẫn cứ phải khẳng định đây là loại tác phẩm chính văn căn cứ vào những dữ kiện như cuốn “Bên Thắng Cuộc” một kiểu viết đòi hỏi phải có một phương pháp làm việc mang nhiều tính chất sử học chẳng hạn như việc lựa chọn dữ kiện, phỏng vấn những nhân chứng còn sống, sưu tầm những tài liệu của những nhân chứng đã chết, phân tích (chứ không phải bình luận) những tài liệu, văn kiện sưu tầm được, đi và nói chuyện với những nhân vật lịch sử có liên hệ hiện còn sống. Xét đến những điều kiện để thực hiện tác phẩm rõ ràng Huy Đức đã đáp ứng đầy đủ như anh đã trình bày trong Lời Nói Đầu và nội dung các chương của tác phẩm. Làm được đầy đủ công việc này, phải mất 10 năm là điều mà tôi tin rằng Huy Đức nói không ngoa.
Đọc một tác phẩm dầy như “Bên Thắng Cuộc” với biết bao nhiêu dữ kiện lịch sử, nhiều cuộc phỏng vấn, nói chuyện với những nhân vật, những nhân chứng lịch sử của cả hai bên, nhất là phần chú thích (nhất thiết phải đọc cả phần chú thích này, bởi vì nó cung cấp cho những luận đoán của người đọc nhiều chi tiết thú vị), người đọc phải mất rất nhiều thời giờ, ngoại trừ, những người vì nghề nghiệp cần phải đọc hết những trang sách trong thời gian ngắn nhất. Ví thử như Huy Đức viết “Bên Thắng Cuộc” chỉ để thỏa mãn nhu cầu chính trị ca ngợi chế độ thì không cần phải 3 năm để đọc tài liệu và 10 năm mới hoàn thành. Cho nên, việc tác giả dùng thời gian hơn một thập niên để viết “Bên Thắng Cuộc” là có lý do của nó. Huy Đức cần phải căn cứ vào cách làm của những nhà văn viết ký sự dựa theo dữ kiện lịch sử để bảo đảm tính “không dễ dãi với cách nhìn những gì đã từng xảy ra trên đất nước Việt Nam”. Đọc “Bên Thắng Cuộc” từ trang đầu đến trang cuối, người đọc có thể thấy nỗ lực của Huy Đức cố gắng không để cho tác phẩm của mình trở thành những ly nước đường cho cả bên thắng cuộc lẫn bên thua cuộc, dù những cố gắng của anh chỉ có giới hạn. Hãy đọc Huy Đức  viết trên trang Facebook lập ra cho cuốn sách:
“Tôi mong các nhà lãnh đạo hiện nay đọc Bên Thắng Cuộc cho dù họ đánh giá cuốn sách như thế nào. Nhận ra những sai lầm để ‘đưa dân tộc Việt Nam đi đúng con đường dân chủ, phát triển’ là mong ước của chúng ta. Nhưng tương lai dân tộc không thể chỉ trông cậy vào một cuốn sách hay chỉ trông cậy vào những nhà lãnh đạo ở bên thắng cuộc.”

Ý kiến mà tôi vừa trích dẫn chỉ là một phần nhỏ trong phần trả lời của tác giả đối với những phản ứng hay ý kiến của độc giả mà tác giả đặt tên là  “Không thể cứ trú ngụ trong sự sợ hãi”. Đài BBC ghi lại một câu hỏi khá quan trọng, đó là “liệu ông có sợ những điều không hay xảy ra với ông vì vi phạm các qui định của Đảng và Nhà Nước”, Huy Đức đã thẳng thừng:
“Tôi không nghĩ là mình nằm trong phạm vi điều chỉnh các qui định đó. Tôi ý thức được những việc gì mình đang làm. Sự thật không  chỉ giúp chúng ta tìm ra những phương thuốc đúng để chữa lành các vết thương cũ mà còn giúp những người đang nắm vận mệnh quốc gia không vi phạm những sai lầm mới. Không ai muốn hứng chịu những điều không hay nhưng nếu cứ trú ngụ trong sự sở hãi thì sự thật sẽ không bao giờ được nói ra, bạn ạ!”
Huy Đức có thể trình bày suy nghĩ của mình về đứa con tinh thần được kể là quan trọng của anh khi chính quyền mà anh đang sống với chưa có dấu hiệu gì muốn nhìn nhận những sự thật mà anh trình bày trong “Bên Thắng Cuộc” là vì những lý do như anh đã viết trên Facebook. Những đoạn trong tác phẩm mà tôi cho rằng quan trọng và người Việt ở hải ngoại nên đọc chính là những đoạn mà tác giả tổng hợp được cách nhìn về mọi phía và về các bên lâm chiến từ giai đoạn lực lượng Cộng Sản tiến vào Saigon và thời kỳ quân quản, hiệp thương thống nhất hai miền Nam Bắc.

Nhưng sau ngày 30-4-1975, thảm kịch diễn ra từ việc trả thù những sĩ quan công chức, cảnh sát VNCH cho tới việc đánh tư sản, tiêu diệt văn hóa văn nghệ tự do, qui kết loại trừ tư bản Tầu Chợ Lớn, cưỡng bức người dân thành phố đi kinh tế mới, cuộc chiến với Khmer Đỏ cùng với những nỗ lực được mệnh danh là “duy ý chí” nhằm áp đặt các mô hình kinh tế xã hội chủ nghĩa bao cấp trên cả nước với chế độ khẩu phần khắt khe đưa đến thảm họa nhân đạo và sự suy sụp kinh tế.
Nguyễn Giang, trưởng ban Việt ngữ đài BBC nhận định về  văn phong của Huy Đức trong các chương nói trên: “Ở các chương này, ngòi bút Huy Đức tỏa sáng trong giọng văn âm thầm, cố gắng giữ vẻ bình thản nhưng bên trong sôi sục, thậm chí có chỗ nghẹn đi vì những biến cố đau đớn cho hàng triệu người  mà anh chứng kiến cận cảnh, nhất là tâm thức một người đi bộ đội và từ Bắc vào Nam”.
Ngay từ những dòng đầu tiên, niềm đau ấy, tâm thức ấy được phản ảnh như dưới đây về một sự thực ở Miền Nam Việt Nam. Sự thực ấy khác những điều mà Huy Đức được dạy dỗ từ thuở thiếu thời:
“Nhưng hình ảnh Miền Nam đến với tôi trước cả khi tôi có cơ hội rời làng quê nghèo đói của mình. Trên Quốc lộ 1, bắt đầu xuất hiện những chiếc xe khách hiệu Phi Long thỉnh thoảng tấp lại bên những làng xóm xác xơ. Một anh chàng tóc ngang vai, quần loe, nhảy xuống đỡ khách rồi rất nhanh đu ra ngoài cánh cửa gần như trong một giây trước khi xe rú ga, vọt đi ngạo nghễ. Hàng chục năm sau tôi vẫn nhớ hai chữ chạy suốt bay bướm, sặc sỡ  sơn hai bên thành xe. Cho đến lúc ấy thứ tiếng Việt khổ lớn mà chúng tôi nhìn thấy chỉ là những chữ in hoa cứng rắn viết trên những băng khẩu hiệu kêu gọi xây dựng chủ nghĩa xã hội và đánh Mỹ. Những gì được đưa ra từ những chiếc xe đò Phi Long thoạt đầu thật đơn giản: mấy chiếc xe đạp bóng lộn xếp trên nóc xe, cặp nhẫn vàng chóe trên ngón tay một người làng tập kết (ra Bắc) vừa về Nam thăm quê ra, con búp bê nhựa biết nhắm mắt khi nằm ngửa và có thể khóc oe oe, buộc trên ba lô của một anh bộ đội phục viên may mắn. Những cuốn sách của Mai Thảo, Duyên Anh… được những bộ đội giấu dưới đáy ba lô đã giúp cho bọn trẻ chúng tôi biết một thế giới văn chương gần gũi hơn là “Rừng thẳm tuyết dày”, “Thép đã tôi thế đấy”, những chiếc máy Akai, radio cassettes được những người hàng xóm tập kết mang ra giúp chúng tôi nhận ra người lính xa nhà, đêm tiền đồn còn nhớ mẹ nhớ em, chứ không chỉ là ‘Đêm Trường Sơn nhớ Bác’. Có một miền Nam không giống như Miền Nam trong sách giáo khoa của chúng tôi.”
Qua đoạn văn này trong Lời Nói Đầu, người ta thấy tác giả  tự tay chém vào thân người mình những vết thương sâu hoắm để tự cảm thấy một nỗi đau, nỗi đau không thảng thốt, nhưng nó sẽ cắn xé, gậm nhấm từ từ một con người còn tỉnh táo để nhận biết sự thật, để nhận biết là trong bao nhiêu lâu của tuổi xuân  mình chỉ được biết những gì không phải sự thật. Theo tôi, nỗi đau của Huy Đức cũng như hàng triệu người có cùng một cảm xúc như anh không khác gì nỗi đau đớn của hàng triệu người ở Miền Nam Việt Nam đã để mất cái phần đất mà chỉ sau 30-4-1975 họ mới có thể hoàn toàn thấu hiểu rằng so với Miền Bắc, nó thật là quí giá, đúng như lời cựu Tướng độc nhãn của Do Thái Moshe Dayan đã nhận định khi ông đến Saigon để viết một phúc trình cho tờ Israel Times rằng người Miền Nam Việt Nam phải biết thua Cộng sản thì mới có thể chiến thắng được họ. Theo tôi nỗi đau ấy không thể được làm thuyên giảm chỉ với những tập tài liệu “Hồ Sơ Mật Dinh Độc Lập” hoặc “Khi Đồng Minh Tháo Chạy” hay “Tâm Tư của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu”, hoặc những cuốn hồi ký trong đó có một số tướng lãnh hay các sĩ quan cao cấp không ngại ngùng nói thẳng ra chuyện các ông bỏ đơn vị, bỏ lính của mình như thế nào để thoát ra nước ngoài trong cơn lốc nghiêng ngửa của Miền Nam. Những cuốn sách ấy không thể là những thắc mắc mà cho tới bây giờ vẫn chưa có câu trả lời dứt khoát, đó là: “Một quân đội thiện chiến, quả cảm, chiến đấu không mệt mỏi trong một cuộc chiến dài và đẫm máu như thế, tại sao họ vẫn thất bại”?
Suy nghĩ của tôi cũng chỉ là cái cớ để nói tới cái bối cảnh ra đời của “Bên Thắng Cuộc”. Sống trong lòng chế độ ở Việt Nam mà đề cập tới những người thắng cuộc cũng đã là một điều khó khăn và đe dọa cho Huy Đức rồi, nhưng đề cập tới những người thuộc bên thua cuộc lại càng khó khăn, phức tạp và nhạy cảm hơn đối với một tác giả xuất thân từ phía thắng cuộc. Tôi xin trích dẫn lời kết luận của một trong những phản ứng chỉ trích của một cựu sĩ quan bên thua cuộc (VML) qua một e-mail được một bạn tù forward cho tôi: “Tác giả đã bỏ ba năm, ngồi đọc 126 quyển, rồi trích lấy 609 câu ghép lại thành từng chương mục thêm vào mấy lời cám ơn, thế là xong một tác phẩm vĩ đại! Tóm lại Bên Thắng Cuộc chỉ là một công trình đáng giá 3 xu hoàn thành từ một Cháu ngoan của Bác”. Tôi không ngạc nhiên về những lời phán này bởi vì trong 20 năm sống ở Mỹ, thói quen của một số người thuộc phía thua trận là bác bỏ và phủ nhận bất cứ một cuốn sách nào từ phía những người thắng trận, nhưng không may, họ lại không thể trưng ra được một tác phẩm nào của họ để đối chiếu. Andrew Wiest khi viết cuốn “Vietnam‘s Army Forgotten” đã có một thư mục sách ông tham khảo dài, những cuộc phỏng vấn và mất cả 3 năm trời để tìm cách phỏng vấn người anh hùng trong quân đội VNCH Trần Ngọc Huế và cả người mà ông cho rằng một nửa giai đoạn chiến tranh là anh hùng nhưng cuối cuộc chiến trở thành người phản bội, Phạm Văn Đính. Larry Berman cũng đã mất khoảng 10 năm trời, dùng số sách tham khảo nhiều hơn Huy Đức và nhất là tìm cách phỏng vấn cho được tình báo viên Phạm Xuân Ẩn trước khi ông ta qua đời để viết cuốn “Perfect Spy”. Cựu Bộ Trưởng Quốc Phòng Mỹ khi viết cuốn “Argument Without End” cũng đã phải vùi đầu vào một núi tài liệu trong văn khố quốc gia Mỹ, rồi phải vận động để được phép thu thập cái kho tài liệu về chiến tranh Việt Nam của Hà Nội mà trước đó không một tác giả Mỹ nào xâm nhập vào được, tổ chức các buổi hội thảo tốn kém để đối thoại với các cựu tướng lãnh và giới chức quân sự chính trị cao cấp từng đối đầu với Hoa Kỳ trong chiến tranh, gặp gỡ riêng tư những người cầm chịch trong cuộc chiến Việt Nam cả về phía Mỹ, Việt Nam và VNCH. Ấy vậy mà trong buổi giới thiệu sách ở New York, tác giả vẫn còn xin lỗi vì những tham khảo chưa trọn vẹn. Có thể có nhiều người không thích những tác phẩm trên của các tác giả Mỹ với nhiều lý do khác nhau, nhưng bảo chúng là ba xu hay vô giá trị, tôi thấy chưa ai dám hạ bút như vậy. Một phản ứng khác từ Tiến sĩ Vũ Thị Phương Anh viết trên Facebook, vốn là con của một viên chức cao cấp của VNCH, về cuốn “Bên Thắng Cuộc”, xin trích:
“Không ai trong chúng tôi lại có thể ngờ có ngày những ký ức và sự kiện lịch sử ấy lại được một người từ bên thắng cuộc viết ra. Những dòng chữ trong cuốn sách của Huy Đức được tác giả viết bằng giọng văn bình thản, khách quan chẳng thấm vào đâu so với những ký ức đầy cảm xúc của chúng tôi, những người phải trải nghiệm thực sự những thí nghiệm của chế độ mới với những người anh em thua cuộc của họ… Những thông tin trong cuốn sách không làm tôi xúc động-vì chắc chắn những chi tiết mà tôi có thể kể ra từ kinh nghiệm cá nhân còn lâm ly và kỳ bí hơn nhiều – mà chỉ làm cho tôi thắc mắc không biết đến bao giờ người anh em thắng cuộc  mới thực sự hiểu đầy đủ những người thua cuộc và ý thức rõ những điều phi nghĩa phi nhân mà họ đã làm đối với người anh em kém may mắn của họ”.
Tiến sĩ Phương Anh cũng nói “chính quyền hiện nay không chân thành nhận lỗi thì sẽ không bao giờ có hòa giải thực sự”. Một nhân vật lịch sử cổ đại là Vua Trần Nhân Tôn, một vị vua nhân đức và một tấm lòng mở rộng như Phật sống, tha tội cho tất cả quan quân đã từng cộng tác với giặc Phương Bắc với để hàn gắn, hòa giải dân Việt có phải nhận lỗi với phe thua cuộc? Lịch sử cận đại của cuộc chiến tranh Nam-Bắc Mỹ, Tổng Thống Abraham Lincoln khi chiến thắng Nam quân sau trận Gettysburg đã ra lệnh cho tướng Grant phải đứng ra để chào kính viên tướng Nam quân lên ngựa sau khi họ đã ký vào văn bản đầu hàng của Nam quân. Nhưng để hàn gắn, Tổng Thống Abraham Lincoln không phải ra lời xin lỗi Nam quân vì thực sự chiến thắng của Bắc Quân không phải là lỗi của ông. Nhưng hành động cấm tất cả binh lính dưới quyền Tổng Tư Lệnh Abraham Lincoln không được truy bức những cựu thù là một cách hàn gắn rất thông minh và văn minh khi bên chiến thắng chìa bàn tay ra trước. Và chung quanh các cộng đồng người Việt Nam ở Hoa Kỳ tổ chức rất long trọng những ngày gọi là Quốc Hận, nhưng đã có ai trong số những người lãnh đạo quân sự và chính trị còn sống ở đây dám đứng ra nhận lỗi với chính những người thua cuộc và dân chúng còn ủng hộ bên thua cuộc dù đã để mất miền Nam Việt Nam không, hay họ vẫn cứ vẫn dễ dãi đổ tất cả tội lỗi cho Mỹ và Dương Văn Minh?
Cho nên, sau 37 năm Hà Nội chưa bị đe dọa bởi những chống đối trong nước hay tại hải ngoại thì mơ ước của Tiến sĩ Phương Anh vẫn chỉ là một giấc mơ đẹp nhưng không bao giờ thành hiện thực. Bởi một điều: Khó có thể đổ lỗi cho bên chiến thắng khi cuộc chiến đã bị quốc tế hóa thành ý thức hệ của hai khối Cộng Sản và Tư Bản. Trong một trận banh, bên nào lừa banh được thì bên đó dễ dàng xuyên thủng lưới đối phương. Bên thua khó lòng viện dẫn lý do là bên kia quỷ quyệt, chơi xấu nên mới thắng. Có phải do thế mà bên chiến thắng phải xin lỗi thì các khán giả ủng hộ hai bên trong trận banh từng chia rẽ nay mới có thể bắt tay đi uống bia với nhau được? Làm gì có chuyện đó, thưa Tiến sĩ Phương Anh? Tỷ số bàn thắng thua trong một trận đá banh hay bóng rổ vẫn là những con số lạnh lẽo, nhưng đáng buồn là nó xác định được thứ ưu thế cũng lạnh lẽo không kém của bên thắng trận. Làm sao có ai trả lời được câu hỏi nếu như Miền Nam là bên thắng cuộc thì liệu sự trả thù có diễn ra với bên thua cuộc là miền Bắc hay không?

Nay có một người như tác giả “Bên Thắng Cuộc” nói tới những xúc cảm của chính mình khi viết một tác phẩm về thắng, thua trên bàn cờ chính trị và quân sự Việt Nam, tôi nghĩ đó là một điều đáng quí. Văn phong bình thản và ôn tồn của một người viết xuất thân từ xã hội Cộng sản cho thấy đây là một yếu tố rất quan trọng của một tác giả còn dính líu nhiều đến quá khứ của các phe lâm chiến trong một cuộc chiến không vinh hạnh gì cho đất nước Việt Nam. Càng bình thản và ôn tồn sự trình bày của mình càng thuyết phục. Càng gồng mình, càng dao to búa lớn, càng biểu lộ cảm tính đối với những vấn đề nay đã trở thành lịch sử thì càng thiếu thuyết phục và trong nhiều trường hợp lộ cho người khác thấy cái non nớt ấu trĩ của mình.
Khi viết về bên thua cuộc, Huy Đức còn nhiều thiếu sót nhất là những chương nói về tù cải tạo và cuộc vượt biển của hàng triệu người Việt Nam (cho tới nay không có con số ước lượng gần sự thật). Nhưng tôi vẫn nghĩ ở thế hệ của Huy Đức (thế hệ 1.5), anh không thể hiểu hết những gì diễn ra trong hai tấn bi kịch đầy thương tổn trong lịch sử cận đại hậu chiến tranh Việt Nam. Hơn nữa, nội dung cuốn sách chỉ mô tả lại hình ảnh về những sai lầm của bên thắng cuộc, kể cả sai lầm đối với bên thua cuộc. Ngay cả người Việt Nam thuộc thế hệ 1.0, 1.5 và 2.0 hiện nay ở Mỹ có người còn không hiểu hết những gì cha anh họ từng phải trải qua trong các trại cải tạo hay trên đường vượt biển, huống chi một nhà báo trẻ như Huy Đức sinh ra và lớn lên trong môi trường xã hội chủ nghĩa và chỉ khi vào Nam mới biết rằng có một Miền Nam không giống như sách giáo khoa miền Bắc đã dạy anh. Cho nên chỉ cần Huy Đức viết về những bi kịch nói trên của bên thua cuộc không giống như lời lẽ của Phan Xuân Huy, một cựu dân biểu dưới chế độ VNCH mà anh trích dẫn trong sách là tôi đã có thể gọi anh là một nhà báo còn giữ được nhân cách và còn tỉnh táo trong suy nghĩ giữa một xã hội mà lòng người ngày càng tao loạn, và những người quản trị đất nước ngày càng khắt khe đối với những ý tưởng độc lập.
Cái oái oăm của lịch sử cũng vẫn theo đuổi những người Việt Nam đã bỏ nước ra đi và nhận nơi này làm quê hương thứ hai của họ. Người Việt Nam ở quận Cam hình thành một cộng đồng từ ngày những bước chân còn bàng hoàng của họ từ các trại tị nạn đặt xuống đây. Cộng đồng này sống giữa một đất nước nơi mà quyền tự do ngôn luận được thiết đã từ lâu và rộng thênh thang. Ấy vậy mà từ 37 năm qua, người dân ở đây cho biết chưa bao giờ họ được nhìn thấy hay được nghe những lời lẽ ôn tồn, lịch sự trong các cuộc thảo luận những vấn đề nhậy cảm. Người ta chỉ thấy diễn ra những lời cuồng nộ và nhục mạ những người có những suy nghĩ khác suy nghĩ của vài cá nhân hay phe nhóm ở đây. Người Mỹ gốc Việt ở quận Cam nói riêng ngày nay thấy một số cá nhân hoạt động chính trị trong cộng đồng bỗng trở thành những “ông biện lý” hay “quan tòa” chỉ biết “phán” mà không hề biết lắng nghe. Họ động dao, động thớt bằng những lời lăng mạ trước, dọa biểu tình sau và cuối cùng bơi móc đời tư của “đối thủ” trên một vài cơ quan truyền thông Việt ngữ. Trong bối cảnh này còn diễn ra một số những hành động ngược ngạo khác: có một vài tờ báo hay cơ quan truyền thông có những bài viết bị kết án là thân Cộng thì chẳng ai làm gì họ được, nhưng ngược lại có những cơ quan truyền thông hay báo chí khác cũng bị cáo buộc tương tự thì bị làm tình làm tội. Chính nghĩa nào cho những người cứ mở miệng ra là nói mình phục vụ cộng đồng hay chống Cộng trong khi chỉ đi làm chuyện tào lao này vậy? Chưa hết, còn một vài nghịch lý nữa: trong một vài buổi ra mắt sách ở đây, có những nhà “phê bình” lên diễn đàn thú nhận chưa đọc tác phẩm của người ta mà vẫn tiếp tục khen lấy khen để chỉ vì tác giả thuộc “phe ta”. Ngược ngạo này sinh ra ngược ngạo khác. Có một thời kỳ, nhiều nhà hoạt động ở Little Saigon này coi Hoàng Minh Chính, Nguyễn Thanh Giang, Tiêu Dao Bảo Cự,  Hà Sĩ Phu là khuôn vàng thước ngọc cho công cuộc chống Cộng nhưng cũng lại chính những người đó nay buông ra những lời lẽ thiếu lịch sự với Bùi Tín, Nguyễn Minh Cần và thậm chí cả Vũ Thư Hiên.
Vì thế, tác phẩm của Huy Đức, ngoài những lời phê bình nghiêm túc, đứng đắn cũng đã nhận được một số phản ứng đại loại như “Việt cộng con”, “răng hô”, “cháu ngoan của Bác”, “ve vãn người quốc gia”, “lộng giả thành chân”, “Bên Thắng Cuộc chỉ đáng gia ba xu” cũng là chuyện thường tình. Trong cơn cuồng nộ của một nhóm người, những cảm tính này rất dễ diễn tả, rất dễ buột ra khỏi cửa miệng, nhưng để có những bằng chứng đi kèm cho thuyết phục thì thật là khó khăn vô cùng vì nó cũng buộc những người phản bác cũng phải dùng một thời gian nghiên cứu lâu ít nhất cũng lâu bằng thời gian tác giả Huy Đức thai nghén “Bên Thắng Cuộc”.
Cho nên, theo tôi, khen, chê, phủ nhận, bác bỏ là quyền đánh giá của người đọc trên một đất nước tự do. Không ai có quyền ngồi lên trên sự tự do đó được. Như thế rõ ràng, người đọc có quyền rộng rãi để lựa chọn một thái độ thì không lý do gì một người nào đó lại cần phải dùng những lời lẽ thô bạo để phê phán một tác phẩm được viết ra bằng một văn phong thầm lặng như trong “Bên Thắng Cuộc”. Trong tinh thần suy nghĩ của một người tự do, tôi đọc “Bên Thắng Cuộc” gần một tháng mới xong và giữ một nhận định riêng cho mình đối với toàn bộ tác phẩm. Bài viết này được viết để chia sẻ với bạn đọc vào ngày cuối cùng của năm 2012 mới chỉ đề cập tới phần bên thua cuộc trong tác phẩm “Bên Thắng Cuộc”. Những phần khác, tôi sẽ đưa ra vào những số báo của năm 2013. (V.A)

Nguồn: Sống Magazine

Năm Mới chúc nhau


Tú Bì
(Phóng tác theo bài Năm mới chúc nhau của Cụ Tú Xương)

Lẳng lặng mà nghe nó chúc nhau
Chúc nhau câu kết tập đoàn sâu
Phen này ăn hết phần dân chúng
Mà diệt thì lo chuyện oán cừu!

Lặng lặng mà nghe nó chúc ăn
Đứa thì ăn đất, đứa ăn quan
Có thằng kiên quyết không từ chức
Mặt thớt, mặt mo cũng cố làm!

Nó lại mừng nhau cái sự giàu
Đô la, vàng bạc để vào đâu ?
Thôi thì mang tuốt sang Thụy Sĩ
Tài khoản phòng khi gió đổi màu!

Nó lại mừng nhau cái sự dê
Già rồi thấy gái vẫn còn mê
Chúc nhau răng chắc như là ấy
Lý tưởng, nhân luân lộn tứ bề!

Nó lại mừng nhau sự độc quyền
Quyền sinh, quyền sát sướng hơn tiên
Đứa nào thắc mắc cho vào rọ
Vào rọ là xong đỡ phải phiền!

Cọp từ Sơn-Thi-Thư blog.

Khảo dị:

     Lẳng lặng mà nghe chúng khuyên nhau
    Cố kiếm chức quan để làm giàu
    Nay bỏ tiền mua mai bán lại
    Vốn một lãi mười chớ lo âu!

    Lẳng lặng mà nghe chúng bảo nhau
    Chơi sao cho quỷ khốc thần sầu
    Tậu hẳn ô tô hàng chục tỷ
    Biệt thự vài ngôi, phố mấy lầu.

    Lẳng lặng mà nghe chúng dặn nhau
    Trăm ngàn vạn mớ giấu ở đâu?
    Bí mật chia năm rồi sẻ bảy,
    Đem đi mà gửi khắp Á -Âu.

    Lẳng lặng mà nghe chúng dạy nhau
    Tiền dân tiền nước khoét cho mau
    Ăn xong nhớ phải chùi mép kĩ
    Không thì "bóc lich" đến bạc râu!

    HOA MAI Blog tiengviet.net
    15:52 Ngày 02 tháng 1 năm 2013

2 thg 1, 2013

'Mùa xuân Ả rập' và Mùa xuân Myanmar


Tác giả: Hồng Ngọc
Bài đã được xuất bản: 02/01/2013 trên tuanvietnam.net

Cùng thuộc về một làn sóng dân chủ hóa trên thế giới, nhưng "Mùa xuân Ả rập" để lại những vết thương sâu sắc chưa hứa hẹn ngày lành, thì Mùa xuân Myanmar cũng chính là quá trình làm lành vết thương của thời kỳ độc tài.

Mùa xuân bão táp ở Ả rập

Một loạt chế độ tại Ả rập - từng ưỡn ngực với sự "đặc thù" của văn hóa Hồi giáo mà từ chối nền dân chủ - đã đồng loạt đi đến hồi kết. Tất cả được châm mồi với chỉ một đốm lửa ở Tunisia hai năm trước.

...Trong Mùa xuân Ả rập, cựu Tổng thống Yemen Ali Saleh đã ra đi theo một cách êm ả nhất có thể: ông từ chức sau 33 năm cầm quyền và sang Mỹ đổi lại quyền miễn tố, để lại một Yemen kiệt quệ và đối mặt với các cuộc nổi dậy và nội chiến.

Hầu hết trong số đó đều tiếp tục nhiệm kỳ của mình sau các cuộc "bầu cử" không có ứng cử viên đối lập và chiến thắng với tỷ lệ phiếu bầu cực cao. Nhưng sự "tín nhiệm cao" đó không che giấu được những vấn đề trầm trọng của dân chúng và khối tài sản kếch xù của những nhà cầm quyền.

Và những cuộc nổi dậy của "Mùa xuân Ả rập" đã lột tả bản chất của sự "tín nhiệm cao" chính là sự sợ hãi của dân chúng, chứ không phải vì đó là chính quyền của nhân dân như các nhà độc tài vẫn tự xưng.

Nhưng sự cai trị bằng nỗi sợ hãi của dân chúng cũng tạo ra sự căm phẫn âm ỉ, và nó sẽ bùng lên khi tích tụ đủ mạnh và có một mồi lửa ném vào.

Cái giá mà đất nước họ phải trả còn lớn hơn thế. Là sự kiệt quệ của dân chúng do sự bòn rút của họ. Là sự hèn đụt và tính thụ động của dân chúng do sự đe dọa của họ. Là sự khủng hoảng lòng tin và đạo đức của dân chúng, do sự cai trị vô đạo đức và chia rẽ dân chúng của họ. Và cuộc nổi dậy như một vết thương được làm loét thêm, do tâm lý trả thù không chỉ nhằm vào nhà độc tài mà còn hướng cả vào những người từng tham gia hệ thống ấy, và những người được lợi nhờ hệ thống ấy, tạo ra một xã hội bị chia rẽ.

Mùa xuân ấm áp với Myanmar

Myanmar, giành độc lập năm 1948, bị hết thống tướng này đến thống tướng khác cai trị sau cuộc đảo chính quân sự năm 1962. Trong ngôn ngữ của chính trị học, đó là chế độ Qủa đầu (độc tài nhóm), một hình thức tinh vi hơn của độc tài cá nhân.

Dù tinh vi tới đâu thì bản chất của mọi chế độ độc tài đều là cai trị đất nước để phục vụ cho quyền lợi của những kẻ cai trị, thay vì để phụng sự nhân dân và đất nước. Đó là nguyên nhân Myanmar từ vị thế là một đất nước phát triển hàng đầu châu Á đầu thập kỷ 1960 đã tụt hậu và kiệt quệ thành một nước lạc hậu nhất ở Đông Nam Á những năm qua.

Đứng trước nguy cơ bị lệ thuộc vào cường quốc láng giềng, giới lãnh đạo Myanmar đã có những thay đổi kịp thời và ngoạn mục.

Cuộc bầu cử dân sự năm 2010 tưởng như chỉ là mang tính hình thức để hợp thức hóa sự cai trị của những tướng lĩnh cũ, mà Tổng thống được bầu vào Mùa xuân 2011 Thein Sein nằm trong số này. Lần đầu tiên nắm quyền cao nhất ở Myanmar, vị tướng cũ đã từ bỏ đường lối cai trị độc tài, bằng cách chấm dứt những dự án của cường quốc láng giềng gây nguy hại cho Myanmar, công nhận đảng đối lập và tổ chức cuộc bầu cử bổ sung tự do vào Mùa xuân 2012, phóng thích hàng loạt tù nhân lương tâm, và cho phép tự do báo chí.

Myanmar còn có một nhân vật vĩ đại nữa làm biểu tượng cho quá trình dân chủ hóa: Aung San Suu Kyi, người đã để lại gia đình của mình ở nước Anh để trở về nước vận động dân chủ năm 1988 bất chấp bị đàn áp, đe dọa, bắt bớ, cấm tranh cử, rồi bị giam lỏng trong thời gian bầu cử năm 1990. Kết quả: bà chiến thắng áp đảo cùng Đảng của mình (82% số phiếu) nhưng bị từ chối chuyển giao quyền lực và tiếp tục bị giam lỏng, và bà từ chối rời khỏi đất nước để tiếp tục cuộc đấu tranh cho dân chủ. Ngày đó đã đến như mong mỏi của bà và nhân dân Myanmar, cho dù Đảng của bà chỉ tranh cử ở cuộc bầu cử bổ sung 45/664 ghế.

Một người từ bỏ quyền lực độc tài để đưa đất nước đến với dân chủ, và ca ngợi đối thủ từng bị phe mình giam giữ. Một người đã chiến thắng trong cuộc bầu cử dân chủ nhưng chấp nhận sự cai trị của chính phe phái từng tước đoạt quyền lực của mình, thậm chí vận động quốc tế xóa bỏ cấm vận với chính quyền đương nhiệm, để tìm kiếm sự khởi đầu mới cho quá trình dân chủ hóa đất nước. Qúa trình dân chủ hóa của Myanmar, nhờ vậy, đồng thời là quá trình hòa giải dân tộc, giúp Myanmar không chỉ giữ được hòa bình mà còn giảm nguy cơ bị chia rẽ.

Đó là lý do cả hai được xếp hàng đầu trong danh sách 100 nhà tư tưởng của thế giới năm 2012 do Tạp chí Foreign Policy (Mỹ) lựa chọn. Riêng Thein Sein được tờ Straits Time (Singapore) bình chọn là Nhân vật châu Á của năm 2012. Vì từ bỏ độc tài quyền lực để trả quyền lực về cho nhân dân luôn là lựa chọn vô cùng khó khăn của mọi chế độ độc tài trong lịch sử.

Nhưng đó là lối thoát duy nhất cho một quốc gia muốn phát triển, và ngay lập tức đầu tư nước ngoài đã xếp hàng vào Myanmar. Và cũng là lối thoát duy nhất cho nhà độc tài để tránh bị xét xử hay bị giết hại khi dân chúng nổi dậy và trả thù, như đã diễn ra với "Mùa xuân Ả rập".

Ba ngàn năm trước, nhà tư tưởng chính trị Khương Tử Nha đã thấu hiểu điều đó khi nhắc nhở Chu Văn Vương rằng: Thiên hạ không của riêng ai, thiên hạ là của cả thiên hạ, chung lợi ích với thiên hạ thì được thiên hạ, đoạt lợi ích của thiên hạ thì mất thiên hạ. Nhờ tư tưởng đó, nhà Chu tồn tại tới tám trăm năm, và là thời kỳ phát triển rực rỡ nhất về tư tưởng, triết học, binh pháp, kỹ thuật của Trung Quốc cổ và trung đại.

Ngày nay, không cần phải thông thái như Khương Tử Nha cũng biết điều đó. Quá nửa quốc gia trên thế giới là những nền dân chủ, thể chế buộc chính quyền phải chung lợi ích với thiên hạ, thay vì chờ đợi chính quyền tự nguyện như triều đại nhà Chu. Nhờ thế, những quốc gia thịnh vượng nhất, văn minh nhất đều là những nền dân chủ.

1 thg 1, 2013

Tin buồn

    Được sự đồng ý của bạn Nguyễn Quang Thạch, Gia đình và BQT (blogk14) vô cùng thương tiếc báo tin: 
   Mẫu Thân bạn Nguyễn Quang Thạch, cựu SV lớp Bán dẫn 69, do tuổi cao sức yếu đã từ trần hồi 03 giờ 45 phút sáng nay (1/1/2013), hưởng thọ 92 tuổi.
   Xin dâng lời cầu nguyện linh hồn Cụ thanh thản về cõi vĩnh hằng!
  K14vt sẽ tập trung dLễ Viếng Cụ vào hồi 14 giờ ngày 03/1/2013 tại nhà tang lễ Phùng Hưng (Hà Nội).
    Kính báo!

Như một lời chia tay... Năm cũ


Thôi băn khoăn về quan này, quan nọ
Hoàng tử nhà nòi, công chúa kiêu xa.
Thôi lý luận khách quan, biện chứng
Về nhóm bếp lên cho ấm nếp nhà.

Không để ý chuyện côn trùng, sâu bọ
Cả tập đoàn hay đại dịch cũng mặc ai
Không cần biết bộ phận nào không nhỏ
Cứ vô tư ngày ba bữa ta xài!

Không nhìn nữa biển Đông dậy sóng
Lũ diều hâu từng phút trực chờ
Mọi việc rồi sẽ có người lo tất cả ?
Ta lặn vào mộng đẹp trong mơ !

Quên đi chuyện tướng này, tá nọ
Mặc họ cho thiên hạ luận bình
Không đọc nữa những tin người oan khốc
Phải cởi truồng, hay vất vưởng, quyên sinh!

Không xem nữa tin quan no thịt
Trẻ em nghèo nước suối chan cơm
Không xem ảnh những tượng đài hoành tráng
Món nợ dân nghèo ngày một nặng thêm!

Ta về với cuộc đời rất thực
Chuyện đúng sai đâu biết mà lần
Mũ ni che tai, băng đen bịt mắt
Để mong cầu hai chữ bình yên!


Cọp từ Sơn-Thi-Thư Blog

Chúc mừng Năm mới


Xuân đã về đây, Xuân đến nơi
Chúc mừng anh chị mãi yêu đời
Tình thân tươi thắm Xuân thêm sắc
Hạnh phúc An vui vọng tiếng cười
Văn Võ

30 thg 12, 2012

Vụ án Đoàn Văn Vươn- sự trả thù thấp hèn!



MINH DIỆN

Đêm qua, khuya lắm, chuông điện thoại của tôi bỗng reo. Tôi không quen biết người gọi mình. Anh ấy tự giới thiệu tên là Hưng ở xã Vinh Quang huyện Tiên Lãng (Hải Phòng).


29 thg 12, 2012

Sách mới nên đọc

Vào trang "Sách mới" để đọc sách cần đọc, nhằm biết thêm thông tin!
Nên đọc từ bài cũ dần về bài mới!