27 thg 10, 2012

Làng tôi - 3


Trong 1 lần về quê, tôi may mắn được dự buổi nói chuyện giữa nhà ngoại cảm Phan Thị Bích Hằng và dòng tộc họ Phan, tại xã Kim Anh huyện Kim Thành tỉnh Hải Dương. Qua bài này có thể nhận định rằng chết chưa hẳn là đã hết. Đạo Phật vốn chú trọng luật nhân quả mà phảng phất trong các câu chuyện của cô Hằng chúng ta càng nhận rõ hơn về vấn đề này: gieo nhân nào ắt gặp quả nấy. Như trong câu chuyện (liệu có hơi fóng đại quá!) bà lão khi còn sống thích lừa người làm cho ăn phân trâu, đến khi nhắm mắt, hài cốt khi tìm thấy lại nằm trong giữa bãi phân trâu. Hay câu chuyện khi sinh thời người dì cho đứa cháu nuôi ăn cơm với phân gián sau này chết đi hồn trở về đòi ăn cơm trộn lẫn phân gián... Những gì nhà ngoại cảm Bích Hằng "nhìn thấy" và kể lại giúp chúng ta có câu trả lời về những khúc mắc mà xưa nay chúng ta thường tự hỏi như chuyện thờ cúng, tập tục đốt vàng mã... Qua đó, người thật lòng tu đạo hãy lo tích phước, lũy thiện ngay từ giờ phút này chớ để khi lâm chung e rằng quá muộn màng vì phải chịu quả báo khổ đau ở những đời sau.

Sau buổi nói chuyện, 1 gia đình trong làng đã gặp tai ương đến hỏi cô Hằng. Mặc dù lần đầu mới gặp cô đã chỉ rõ địa thế khuôn viên mà gia đình này đang ở fạm những điều bất lợi gì dẫn đến tai ương và chỉ cách giải cho gia đình.

Đường link dẫn đến video buổi nói chuyện của cô Hằng với dòng Tộc họ Phan tại xã Kim Anh – làng tôi nằm trong đó. (video kém chất lượng do đĩa gốc).

26 thg 10, 2012

Lời cảm ơn của GĐ Trần Quang Ngân


Trần quang Ngân20:46 26/10/2012
Cảm ơn các bạn K14VT đã gửi lời chia buồn tới gia đình của Ngân.

(Nhận xét trong bài "Tin buồn" bót (post) ngày 5/10/2012)

24 thg 10, 2012

Hãy luôn nhanh tay...

HÃY LUÔN NHANH TAY BẢO VỆ BÀ MẸ VÀ TRẺ EM MỌI NƠI MỌI LÚC

Trong xã hội hiện đại, ở VN cũng như rất nhiều nơi trên TG vẫn còn tệ nạn bạo ngược phụ nữ và trẻ em, bóc lột sức lao động quá mức của phụ nữ và trẻ em, đã đến lúc chúng ta cần dóng lên hồi chuông cảnh báo về sự nguy hại của tệ nan đó và đồng thời hãy nhanh ra tay cứu giúp những hoàn cảnh éo le của những bà mẹ và đứa trẻ đang vạ vật đâu đó, không nơi nương tựa. XIn trân trọng giời thiệu bài viết sau của tg Đoàn Bảo Châu (UNICEF Việt Nam\2006\Đoàn Bảo Châu) Các vấn đề về bảo vệ trẻ em ngày càng được quan tâm tại Việt Nam. Theo báo cáo, có hơn 2,6 triệu trẻ em ở Việt Nam cần được bảo vệ đặc biệt. Trong số đó có trẻ em bị lạm dụng, bị bóc lột và buôn bán vì mục đích tình dục; trẻ em lang thang cơ nhỡ; trẻ em tật nguyền; trẻ em vi phạm pháp luật; trẻ mồ côi; trẻ em bị ruồng bỏ; trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS; và trẻ em sống trong cảnh nghèo đói. Hoàn cảnh của các em đều hết sức nghiệt ngã. Chỉ có một số ít trẻ em Việt Nam được nuôi dưỡng và chăm sóc ở các cơ sở của nhà nước, còn rất nhiều em khác phải tự bươn trải để kiếm sống. Một số em bị bắt lao động, còn một số khác sống lang thang trên các đường phố - chính tình cảnh đó khiến cho các em có nguy cơ cao bị nhiễm HIV, sử dụng ma túy và bị lôi cuốn vào các hành vi phạm tội và mại dâm. Có nhiều lý do phức tạp khiến các em lâm vào những tình cảnh éo le như vây. Các yếu tố kinh tế như nghèo đói, chênh lệch về thu nhập và sự chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường cũng làm cho các em trở nên dễ bị tổn thương hơn. Các trào lưu xã hội như di cư, các giá trị gia đình đang bị băng hoại và tình trạng phân biệt đối xử về giới cũng ảnh hưởng xấu tới trẻ em. Các vấn đề bất cập mang tính hệ thống như thiếu một khung pháp lý toàn diện, việc thực thi pháp luật còn yếu và nhận thức về vấn đề bảo vệ trẻ em còn hạn chế cũng đe dọa ảnh hưởng tới trẻ em. Số trường hợp nhiễm HIV đang gia tăng cũng khiến cho trẻ em phải đối mặt với nguy cơ cao hơn. Một thực tế làm cho vấn đề trở nên trầm trọng hơn, đó là Việt Nam chưa có hệ thống bảo vệ trẻ em một cách toàn diện cũng như chưa có các dịch vụ bảo vệ trẻ em. Vấn đề này gây cản trở những nỗ lực tiếp cận và chăm sóc cho những trẻ em cần được bảo vệ đặc biệt. Chính phủ Việt Nam đang bắt đầu giải quyết những vấn đề này. Với sự hỗ trợ trực tiếp của UNICEF, Chính phủ đang xây dựng Chiến lược Quốc gia về Bảo vệ trẻ em nhằm thiết lập một bộ máy và hệ thống bảo vệ cho trẻ em trong giai đoạn 2006 - 2015. HỖ TRỢ CỦA UNICEF UNICEF hỗ trợ những nỗ lực của Chính phủ nhằm tăng cường bộ máy và chiến lược tổng thể về bảo vệ trẻ em và thiết lập một hệ thống công lý thân thiện với trẻ em. Sau đây là những biện pháp chiến lược và hoạt động chính của UNICEF về bảo vệ trẻ em: Tuyên truyền, vận động và xây dựng chính sách: UNICEF chia sẻ kiến thức chuyên môn, công cụ và những kinh nghiệm, tập quán hay cũng như hỗ trợ công tác nghiên cứu và theo dõi để giúp Chính phủ xây dựng mới và rà soát lại các bộ luật, chính sách và chiến lược về bảo vệ trẻ em. UNICEF cũng đã giúp Chính phủ khuyến khích xã hội dân sự và khu vực tư nhân tham gia cung cấp các dịch vụ bảo vệ trẻ em. Xây dựng năng lực: UNICEF hỗ trợ thiết kế và xây dựng công tác xã hội, bộ máy bảo vệ trẻ em cũng như các quy trình, thủ tục và tiêu chuẩn chuyên môn trong lĩnh vực này. UNICEF cũng cho rằng việc đào tạo về công tác xã hội, bảo vệ và chăm sóc về mặt tâm lý-xã hội cho trẻ em là một chiến lược quan trọng nhằm tăng cường việc công tác bảo vệ trẻ em nói chung. Trên tinh thần đó, UNICEF hỗ trợ xây dựng chương trình và giáo trình đào tạo, và tiến hành đào tạo các giảng viên dạy về công tác xã hội ở các trường đại học và cao đẳng. Ngoài ra, UNICEF hỗ trợ xây dựng và thực hiện các chương trình đào tạo ngắn hạn cho cán bộ ở các cơ quan chủ chốt của Chính phủ. Xây dựng mô hình và tăng cường nguồn lực phục vụ bảo vệ trẻ em: UNICEF hỗ trợ cả về kỹ thuật và tài chính cho việc xây dựng và thực hiện các mô hình bảo vệ trẻ em ở cấp cộng đồng. Sau này có thể nhân rộng và sử dụng những mô hình này làm cơ sở để xây dựng chính sách và luật pháp trong tương lai. Nâng cao nhận thức và tham gia: UNICEF góp phần nâng cao nhận thức về vấn đề bảo vệ trẻ em, thay đổi ý thức, thái độ đối với trẻ em dễ bị tổn thương và tạo ra sự thay đổi hành vi trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo chính trị và xã hội; giới báo chí; các cộng đồng; và các gia đình. UNICEF còn nâng cao vị thế của trẻ em bằng cách khuyến khích chính các em tham gia vào các hoạt động bảo vệ trẻ em. Ngoài ra, UNICEF đã góp phần huy động và tăng cường sự tham gia của các tổ chức xã hội dân sự và khu vực tư nhân trong sự nghiệp bảo vệ trẻ em. CÁC MỐI QUAN HỆ ĐỐI TÁC Trong lĩnh vực bảo vệ trẻ em, UNICEF phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chính phủ (như Bộ Lao động, Thương binh và xã hội; Bộ Tư pháp; và Bộ Công an), các NGO, các cơ quan LHQ, các tổ chức cơ sở như Hội Phụ nữ, Đoàn thanh niên, các tổ chức tôn giáo, các trường đại học, các hiệp hội ngành nghề, các gia đình, giới báo chí và, quan trọng nhất là trẻ em và thanh niên.

Ăn chay

Trong thời đại văn minh hiện đại, ăn chay đã trở nên khá phổ biến và là nhu cầu tất yếu của hàng triệu triệu người khi họ đã nhận thức ra rằng: ăn chay không những có lợi cho sức khỏe: giảm nguy cơ bệnh tật, tăng sức đề kháng cho cơ thể và theo đó làm tăng tuổi thọ; Tuy nhiện ai cũng hiều ăn chay có nghĩa là dùng thức ăn phi động vật, đó là điều hoàn toàn đúng, tuy nhiên yếu tố quan trọng hàng đầu là phải biết chế biến suất ăn chay sao cho đảm bảo đủ năng lượng cần thiết và phù hợp với khẩu vị mọi người, HT (đã ăn chay "nghiệp zư" hơn 10 năm nay) đồng thơi ăn chay còn mang lại cho ta vấn đề bảo vệ môi trường sinh thái. Xin giới thiệu với các vị bài viết sau của Tâm Diệu: ĂN CHAY BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG SINH THÁI - Tâm Diệu (02/18/2011) (Xem: 13706)

ĂN CHAY BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG SINH THÁI

Thành phố San Francisco ở California đã trở thành thành phố thứ nhì trên thế giới và đầu tiên của Mỹ có một ngày chính thức trong tuần không ăn thịt. Thành phố Ghent của Bỉ là thành phố đầu tiên trên thế giới đã làm việc này. Phong trào không ăn thịt, ít nhất là một ngày trong tuần hiện đang có khuynh hướng gia tăng tại Hoa Kỳ và các nơi trên thế giới nhằm ủng hộ lối sống lành mạnh, ý thức về môi trường sinh thái, đồng thời kêu gọi sự thức tỉnh của con người về mối liên hệ giữa thói quen ăn uống, sức khỏe và sự biến đổi khí hậu toàn cầu. Nhiệt độ ấm dần lên của địa cầu, thời tiết biến động nhiều khiến mưa lũ cùng bão lớn, lốc xoáy nhiều hơn và ngày càng khủng khiếp như bão Kathina 2005 ở Hoa Kỳ, bão Nargis 2008 ở Miến Điện, mới đây những trận bão liên tiếp ở vịnh Mexico: Gustav, Hanna, Ike. Nhiều người lo ngại và tìm biện pháp đối phó. Các khoa học gia tìm hiểu nguyên nhân, xác nhận ăn thịt có tác động lớn đến môi trường sinh thái và ảnh hưởng không tốt đến sức khỏe con người. Vào năm 2006, báo cáo của LHQ kết luận việc sản xuất và tiêu thụ thịt góp phần làm biến đổi khí hậu qua quá trình tạo chất khí gây hiệu ứng nhà kính của nền công nghệ chăn nuôi súc vật. Cơ quan Lương thực và Nông nghiệp Liên Hiệp Quốc (FAO) xác nhận việc chăn nuôi và giết thịt bò cùng các loại động vật khác chiếm 18% tổng lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính qua việc thải phân, xì hơi (trung tiện) và ợ hơi của chúng. Các chất khí gây hiệu ứng nhà kính như methane, cacbon đai ốc xai và nitrous oxide, có liên quan đến tình trạng trái đất nóng dần lên làm biến đổi khí hậu. Biến đổi khí hậu gây bão tố thường xuyên, ảnh hưởng đến môi trường sống con người. Theo Ngân hàng Thế giới (WB) công bố ngày 26-2-2007, mực nước biển dâng cao do hiện tượng trái đất nóng dần lên gây ảnh hưởng mạnh nhất ở các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam, nhất là khu vực đồng bằng sông Cửu Long và đồng bằng sông Hồng. Nước biển tăng lên 5m, Việt Nam có thể mất đi 16% diện tích đất với hơn 35% dân số và khoảng 35% tổng giá trị GDP bị ảnh hưởng. Mực nước tăng 1m có khoảng 10,8% tổng dân số Việt Nam phải chịu ảnh hưởng tổn thất nặng nề. Vì thế ăn chay có thể góp phần vào việc giảm bão tố, lụt lội. Theo báo cáo của FAO, ngành chăn nuôi súc vật đã chiếm hơn 30% diện tích đất trên địa cầu để sản xuất thịt và ngày càng có khuynh hướng gia tăng. Số nông trại nuôi súc vật để làm thức ăn cho con người ngày nay đã gia tăng hơn bốn lần so với năm 1945. Để yểm trợ, con người phải phá hủy cây rừng thiên nhiên, lá phổi thở quý báu của nhân loại. Người ta tính cứ mỗi mẫu rừng phá hủy để làm nhà, làm chợ, làm bãi đậu xe và làm đường thì có đến bảy mẫu rừng bị phá hủy để nuôi súc vật và trồng ngũ cốc cho chúng ăn. Hiện nay ở Hoa Kỳ, phân nửa diện tích đất nông nghiệp được dùng để sản xuất thực phẩm cho ngành chăn nuôi súc vật, 90% tổng sản lượng lúa mì thu hoạch được dùng cho ngành này. Thống kê cho biết, cứ 16 pounds lúa mì cho súc vật ăn mang lại 1 pound thịt và theo Aaron Altshul viết trong tác phẩm Protein: Their Chemistry and Politics (Protein: Hóa học và Chính trị): " Chúng ta sử dụng một mẫu đất (4.046m2) để trồng ngũ cốc cung cấp thực phẩm cho những người không ăn thịt, được sản lượng nhiều hơn gấp 20 lần so với sử dụng đất ấy để sản xuất thịt". Thịt bò nói riêng và súc vật nuôi để làm thức ăn cho con người nói chung đã và đang tổn hại môi trường sinh thái. Các nhà khoa học đã tính "Cứ mỗi quarter (một phần tư) pound thịt bò bạn ăn là 55 square feet rừng cây nhiệt đới vùng Trung Mỹ bị phá hủy, sự phá hủy này cung cấp 500 pounds khí cạc bon đai ốc xai vào bầu khí quyển". Bác sĩ Neal D. Barnard, chủ tịch Ủy ban Y sĩ trách nhiệm Y khoa Hoa Kỳ nhấn mạnh "Bạn ăn thịt là góp phần vào việc phá hủy môi trường sinh sống trên trái đất dầu bạn biết hay không. Điều bạn làm được là không yểm trợ nền kỹ nghệ sản xuất thịt và bơ sữa Hoa Kỳ". Ăn chay góp phần vào việc bảo vệ môi trường sinh thái, bảo vệ rừng cây xanh. Báo cáo của Liên Hiệp Quốc cho biết có khoảng từ một tỷ đến hơn ba tỷ người sẽ thiếu nước và hàng triệu người sẽ đối mặt với nạn đói cũng như nhiều thảm họa thiên nhiên. Băng trên đỉnh núi Hy Mã Lạp Sơn đang tan nhanh khiến diện tích vùng băng tuyết có thể thu hẹp từ 500 ngàn cây số vuông xuống còn 100 ngàn cây số vuông trước năm 2030. Trong khi đó ngành công nghệ sản xuất thịt lại sử dụng nước nhiều hơn tất cả các ngành công nghệ khác cộng lại, đồng thời thải ra sông rạch, ao hồ chất cặn bã nhiều nhất làm ô nhiễm, ảnh hưởng các nguồn nước thiên nhiên tinh khiết ngày càng cạn dần. Chỉ lò sát sanh lớn tại Nebreska Hoa Kỳ, chuyên sản xuất thịt gà, sử dụng 100 triệu gallon nước mỗi ngày tương đương lượng nước cung cấp cho thành phố có 25.000 dân cư. Trong quyển Population, Resources and Environment (Dân số, Tài nguyên và Môi sinh), tác giả Paul và Anne Ehrlich đã so sánh: Nếu chúng ta muốn thu hoạch 1 pound lúa mì, chỉ cần 60 pound nước nhưng nếu chúng ta muốn sản xuất 1 pound thịt bò, phải tiêu thụ từ 2.500 đến 6.000 pound nước. Ngoài ra, không khí chúng ta thở bị ô nhiễm do khí methane thoát ra từ công nghệ sản xuất thịt. Robins Baskin, tác giả Diet for a New America đã viết rằng mỗi 1,3 triệu súc vật sản xuất khoảng 100 triệu tấn khí methane hàng năm, khí này là một trong ba loại khí do tác dụng nhà kính gây ra ảnh hưởng đến độ ấm nóng trái đất. Do vậy, chúng ta ăn chay sẽ tránh được lượng nước lớn ô nhiễm môi sinh và giảm thiểu khối lượng khí methane thải vào không khí. Tóm lại, nguyên nhân đưa đến tình trạng biến đổi khí hậu khiến bão tố, lụt lội nhiều hơn, nguồn nước sạch cùng không khí bị ô nhiễm do chính con người gây ra, là mối đe dọa chung liên quan đến môi trường sống hiện nay. Đối với hàng triệu người nghèo đói trên thế giới thì vấn đề biến đổi khí hậu, ảnh hưởng xấu không còn là vấn đề tương lai, đã và đang hủy hoại ước mơ, nỗ lực thoát khỏi cảnh nghèo đói. Thế hệ con cháu chúng ta có nguy cơ bị ảnh hưởng. Tương lai không phải định mệnh mà tùy thuộc nơi chính chúng ta. Chúng ta có thể thay đổi tình thế và chiến thắng cuộc chiến chống hiện tượng biến đổi khí hậu toàn cầu, chống không khí và nước uống bị ô nhiễm, chiến thắng đó đạt được khi toàn thể chúng ta cùng hiệp lực, trong đó có việc tiết giảm nhu cầu ăn thịt, ít nhất là một ngày trong tuần như nhân dân hai thành phố San Francisco ở Hoa Kỳ và Ghent ở Bỉ Quốc đã làm. Dù là Phật tử hay không, dù giàu sang hay nghèo khó, chúng ta cũng có thể góp phần vào việc này bằng tình thương yêu của mình đối với môi trường xung quanh qua những hành động mang tính không sát hại chúng sinh, tôn trọng sự sống của muôn loài từ người, vật cho đến cỏ cây, hoa lá. (Tạp chí Đạo Phật Ngày Nay).

23 thg 10, 2012

Lời Cảnh báo của cô bé 12 tuổi

www.youtube.com/watch?v=QdbfwfGhfwo
Lời Cảnh báo của cô bé 12 tuổi khiến cả thế giới im lặng

22 thg 10, 2012

Làng tôi - 2

Gõ đại bởi honngv, 10/2012

Chưa kịp ‘hồi sinh’ sau cải cách ruộng đất, và vừa mới thực hiện khẩu hiệu “Chia ruộng đất cho dân cày” chưa trọn 2 năm (1954 - 1956), cái khẩu hiệu mà vì nó bao máu xương mất mát, bao tiền của dân làng đóng góp cho cách mạng, hòn đất chưa kịp trở mình, cái cây chưa quen hơi đất, dân làng tôi lại bị ‘tước’ sạch ruộng đất để xung vào cái gọi là Hợp tác xã nông nghiệp (HTX), theo mô hình của Liên Xô (CCCP – các chú cứ phá).

Bố mẹ tôi chần chừ, chẳng vào HTX ngay. Nhưng sau 1 năm bị ‘làm fiền’, cấm đoán đủ thứ, năm 1957 các Cụ buộc fải trở thành xã viên HTX. Trong cái dở có ‘cái may’, nhờ vào HTX mà hôm nay tôi mới ngồi đây mổ cò bài này mong được gửi tới các bạn một vài dấu ấn thời thơ ấu mà tôi còn nhớ. Trong khi đó ông bạn cạnh nhà tôi, học cùng nhau từ cấp I, cấp II, cùng tự quấn tai nghe Galen rồi chăng sợi dây làm angten để nghe đài tiếng nói Việt Nam, (lúc ấy là oách lắm vì chưa có đài, chưa có loa công cộng), lên cấp III chính quyền không cho học tiếp vì gia đình không vào HTX. Bực mình, quyết kg chịu thua chị kém em, nhất là khi tôi vào đại học, lão nói không thể ‘kém’ tôi nên lão tìm đường đi tàu vosco, giàu ú ụ, nhà cao cửa rộng, ô tô đen bóng lúc bấy giờ là kinh lắm, con cái thành đạt, mua đất tậu nhà cho con cái ở ngay TP Hải Phòng, lại còn giúp bà con láng giềng lúc cơ hàn. Giờ tôi về quê, thỉnh thoảng vẫn ngồi nhờ ô tô của lão, oai như cóc tía! Đúng là Trời có mắt.

Tuy còn nhỏ, tôi vẫn vừa học vừa làm. HTX chấp nhận vì nhà tôi neo người, bố mẹ tôi đã yếu. Thế là mùa nào việc nấy, từ đắp bờ vùng bờ thuở (lại theo kiểu CCCP), đến tất cả công việc đồng áng: cày bừa, tát nước, gánh fân, nhổ cỏ, gặt hái… làm tất. Làm cả ngày, ghi sổ được 5 hay 6 điểm. 10 điểm bằng 1 công. Mỗi công đến mùa được chia vài lạng thóc tươi. Chả khác ăn xin!

Mỗi thôn trong làng có 1 đến 2 sân lát gạch hay vôi rộng, gọi là ‘sân hợp tác’ hay ‘sân kho’, vì nó gắn liền với 1 vài gian nhà nhỏ làm nơi chứa thóc của Đội sản xuất, gọi tắt là ‘đội’. Mùa gặt, ban ngày gặt lúa ngoài đồng, gánh tất về sân kho. Tối đập lúa bằng 1 cái néo, đập vào đít cái cối đá kê nghiêng thành 1 vòng tròn rộng. Những đêm trăng sáng mà đập lúa sân kho cũng vui. Thanh niên kể cả các cô các bác trong Đội cứ 2 người đập 1 cối, vừa đập lúa vừa tán khoác như Trạng hoặc nhằm quăng lượm rơm vào người mình trêu, mặc dù mệt thấy ông bà ông vải. Gõ đến đây lại nhớ cái bài gì ấy của thằng ‘Trời đánh Thánh vật’ PhọtPhẹt. Ai đời nó lại nói nó hay nhìn trời qua háng người đàn bà. Kinh. Nó thì nói xạo thôi. Nhưng tôi vẫn cảm thông và fục nó, vì trong những đêm đập lúa ấy tôi đã không ít hơn 1 vài lần vô tình nhòm Trăng qua háng 1 bà cô, có thấy mẹ gì đâu. Đúng thằng Phẹt chỉ nói fét! Giờ bà cô còn sống và đã lên chức cụ. Con gái bà mang tên 1 thứ mà chị em đều thích, có đống con. Cô giống mẹ, thời trẻ cực ngon. hehe…

Sau khi đập lúa đến khuya thường 1 số con trai ngủ ngay tại sân kho. Có bọn lớn hơn tôi vài tuổi chơi bời hay tán gái đâu đó cũng về đây ngủ, vì lúc ấy chưa có điện, rúc trong nhà tranh lụp xụp nóng như lò gạch. Chúng thường kể chuyện gái gú trước khi ngáy, kể cả chuyện mô tả chị H con bà N (người trong làng) giỏi làm chuyện ấy thế nào. Chúng còn cuộc nhau, giờ này mà ra rặng chuối bờ đầm làng Oi thế nào cũng tóm được chị H đang hành sự. Chúng kể đến tỷ mỷ làm tôi tuy chưa hiểu mấy mà người như hâm hấp sốt! Hội này nay tôi về quê thỉnh thoảng vẫn gặp, có người uống rượu như nước lã, có người đã mất.

Mùa thu hoạch khoai lang, tôi ghét nhất việc thái và fơi khoai. Ấy là vì đang tuổi ăn tuổi ngủ, lại ban ngày làm đã mệt, 4 giờ sáng bà thím đã đánh thức bắt ra sân kho quét để giành lấy 1 khoảng sân, nếu kg muốn khoai bị thối. Phải tranh nhau sân fơi vì bấy giờ đại đa số các nhà trong làng chỉ có sân đất. Sau đó về ngồi chàng háng thái khoai bằng 1 dụng cụ bán chuyên nghiệp gọi là ‘cầu thái khoai’. Củ khoai sau khi đã được rửa sạch vỏ, bị cái cần gỗ giật mạnh, ép vào hàng lưỡi cắt dạng răng lược, những miếng khoai hình con chì oằn mình chui ra. Fần vì còn bé, fần vì ngủ gật nên nhiều lần tôi tự thái tay mình.

Các bạn thử tưởng tượng, 1 mình bé như củ khoai, mỗi rạng sáng ngồi trước 1 đống khoai lang to hơn cái bàn để máy tính thời nay, vỏ bám đầy đất mà rửa cho hết từng củ 1 bằng bối rác, xong lại thái rồi đem fơi sẽ thấy sự ngao ngán của tôi đến mức nào! Cả tháng liền như thế.

Cạnh làng tôi là làng Đò, (cô bạn đồng môn ở “Một thời để nhớ” người làng này). Khoai làng Đò bấy giờ ngon nổi tiếng. Chả thế mà trong dân gian (ít nhất là ở quê tôi) vẫn tồn tại câu: “Khoai làng Đò, giò Hà Nội”. Có lẽ vì đất làng này fa cát. Nồi khoai luộc vừa sôi đã tỏa mùi thơm nưng nức, đặc mùi thôn quê. Loại khoai chuột (to bàng con chuột) có vỏ màu vàng nhạt vừa bở vừa thơm. Cắn 1 miếng gần như tan ngay trong miệng, na ná giống Bánh Đậu Xanh Hải Dương bây giờ, tất nhiên nhạt vị ngọt hơn. Những trưa hè oi ả, đi bắt cua ngoi về, da đen xạm, ngồi fệt dưới bóng mát của bụi tre, chờ từng cơn gió mà húp bát cháo khoai thấy quá đã. Nay khoai làng Đò không còn nữa vì đất làng Đò đã biến chất, bạc mầu bởi trăm loại hóa chất của thuốc trừ sâu, diệt cỏ.

Khoai lang sau khi fơi kiệt nước cho vào thùng bọc lá chuối khô để dành. Nếu đem giã nhỏ, rây mịn, nặn thành những chiếc bánh như bánh bao, rồi đem hấp hay luộc chín. Để nguội ăn nó quanh quánh, dai dai, ngọt thơm, ngon cực.

Tôi thích nhất vụ mùa vào khoảng tháng 10 (âm lịch) đi bừa ruộng ải. Dế đủ các cỡ các loại trú ngụ trong đất ải bị bừa vỡ tơi ra bơi loằng ngoằng trên mặt nước bị các chú chim (tên quên rồi) lao mình xuống đớp. Bọn nhỏ chúng tôi làm những chiếc bẫy, hai cánh bằng tre, nối sẵn 1 vòng dây thòng lọng, bị kéo cong lại và được giữ chặt bởi 1 cái cá. Trên đầu cái cá buộc 1 chú dế sống. Khi chú chim xấu số mổ dế, cái cá bị tuột, 2 cánh bẫy bung mạnh ra như 2 cánh cung, kéo vòng dây thít chặt cổ chú chim. Bọn nhỏ đặt bẫy xong ngồi chờ ở đầu bờ trong khi người trâu vẫn bừa dưới ruộng, mỗi khi có 1 chú chim sa bẫy lại hò reo vang cả cánh đồng.

Vào cỡ tháng ba, vụ chiêm, (ngày ấy chưa có vụ xuân), sau những trận mưa đầu mùa: “Lúa chiêm ngấp ngé đầu bờ/ hễ nghe tiếng sấm mở cờ mà lên”, cả cánh đồng tuyền màu xanh, uốn lượn như sóng theo chiều gió, trông thật bắt mắt. Cứ mỗi trận mưa to nước tràn lênh láng, không khí mát rượi, trong lành. Chúng tôi, kể cả bọn con gái trong làng đội mưa, dùng cái rổ tre hứng ngang dòng nước chảy, trên fủ ít lá rong rêu để cá trong rổ không nhảy ra được, gọi là đơm tràn. Rất vui. Cá tôm đơm tràn có vị ngon riêng, không giống tôm cá khác, thường kho nhạt với quả chay, chén vã ngon tận tới dạ dầy.

Mưa rào tháng 5 tháng 6, châu chấu rất nhiều. Bọn tôi mình trần, quần đùi, không mũ nón chạy khắp cánh đồng đuổi bắt châu chấu, bỏ vào cái chai đạy nút bằng vài cọng rạ. Về thả vào nước nóng, vặt cánh, vặt chân, vặt đầu, rút ruột, xào lá chanh, thơm lừng cả làng.

Mùa hè, vào những ngày có gió, chiều mát bọn tôi thường chơi hoặc tham gia thả diều với các anh các chú quanh xóm. Lăng xăng giữ dây, chỉnh lèo, rồi rong diều vui như hội. Tiếng sáo diều vi vu cả làng đều nghe rõ. Đêm nghe tiếng sáo diều ngủ lúc nào kg biết.
….
Bọn trẻ nông thôn ngày ấy, mùa nào việc nấy, trò chơi ấy, thú vui ấy. Tất mọi trò đều là vừa chơi lại như vừa làm vừa học. Và đặc biệt nó gắn liền với bờ tre, cánh đồng, dòng sông, giếng nước, lúa, trâu, cây cỏ… Có lẽ chính vì thế mà tình yêu quê, nỗi khắc khoải với quê của bọn tôi khác xa bọn trẻ bây giờ.


NHỚ QUÊ

Lâu không về lòng ta lại nhớ
Mảnh đất quê hương bao vết chân trần
Nhớ ruộng lúa nuôi ta từ tấm 
Nhớ dòng sông gội rửa những nhọc nhằn.

Lâu không về lòng ta lại nhớ
Đường đống quê hương che chở vạn
                                                   Linh hồn.
Nén nhang thắp giữa đất trời gió lộng
Tiếng sấm vang rền
                        Vọng sáng
                                    Bóng Tiền nhân…

                                                      11- 8 – 2004


Quê hương tuổi thơ tôi - Mỹ Tâm – MP3


19 thg 10, 2012

Vịnh cá ươn

Cá không ăn muối cá ươn (Tục ngữ)

Thương cho con cá đã bị ươn
Còn đem rao bán ở chợ phường.
Ngoảnh mặt, trăm bà chê đồ ối
quay lưng, chục chú vẻ xem thường.

Lòi mang, vẫn cố cho thêm muối
bể bụng, còn đi nhuộm phẩm hường.
Cá thối tại sao, không bón đất?
Ai mà thắc mắc, hỏi ” Trung ương “.

(tức cảnh Tái cấu trúc DNNN thành... thơ)
Sài Gòn 15/10/2012
Bùi An Nguyễn; Theo blog NTT

Lời ru của mẹ


Nhân ngày Phụ nữ VN mời các bạn 1 lần nữa thưởng thức lại ca khúc "Lời ru của mẹ" với giọng ca ngọt ngào, truyền cảm của nghệ sỹ Như Quỳnh và màn dàn dựng công fu đầy ý nghĩa của Paris by night đặng thay lời Tri Ân đến các bà Mẹ của chúng ta!

Lời ru của mẹ - Như Quỳnh
http://www.youtube.com/watch?v=-eWBjRuk0nw

Lời Ru Của Mẹ - Tụng Thần Chú Đại Bi của Bồ Tát Quán Thế Âm - Ca
Trình bày: Phi Nhung

18 thg 10, 2012

Ảnh của cố NS Trịnh Công Sơn


Những bức ảnh quý hiếm của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn
alt
Trịnh Công Sơn thời trai trẻ

alt
NS Trịnh Công Sơn và 2 cô em gái Trịnh Hoàng Diệu và Trịnh Vĩnh Trinh
 
 alt
alt 
Trịnh Công Sơn và Văn Cao
 alt
 Trịnh Công Sơn và Khánh Ly

alt
Bên cạnh cô “bống” Hồng Nhung

alt
Ông đã để lại đời hàng loạt ca khúc: Ướt mi, Diễm xưa, Dấu chân địa đàng (Tiếng hát dạ lan), Chiều một mình qua phố, Ở trọ, Quỳnh hương, Cát bụi, Một cõi đi về, Để gió cuốn đi… tự nhiên đi vào lòng người bằng chính những khoảnh khắc thăng hoa cảm xúc như thế này....

Video 10 bài hát bất hủ của Khánh Ly - Trịnh Công Sơn

Ru ta ngậm ngùi - Khánh Ly hát tại quán Văn - Sài Gòn trước 1975
HẠ TRẮNG - Khánh Ly
Diễm Xưa - Khánh Ly
Tinh nho - Khánh Ly
Tuổi Đá Buồn - Khánh Ly
Chiều Một Mình Qua Phố - Khánh Ly
Nhìn những mùa thu đi - Khánh Ly
Em còn nhớ hay em đã quên - Khánh Ly
Đêm thấy ta là thác đổ - Khánh Ly
Cát bụi - Khánh Ly

Nhặt trên Nét

Thắng chưa hẳn đã đúng

Nhân chuyện kể biếu quyết và đa số sẽ thắng (thắng chưa hẳn đã đúng), xin kể ra đây chuyện có thật trăm phần trăm: Ngày xưa lưu học sinh ta sang LX học, một lần trong khi nghe thầy giáo giảng môn chính trị kinh tế học, bỗng thầy giáo hỏi sv: các bạn biết Các Mak sinh ra ở nước nào không? một sv giơ tay phát biểu: thưa thầy: Cac Mak sinh ra ở Đức ạ, Thầy bảo: không đúng, Mak là người LX, em khác cũng trả lời: Cac Mak là người Đức. Nghe vậy, thầy liền quát: Ngồi xuống! tôi đã bảo Cac Mak người LX là LX.

17 thg 10, 2012

Đa số tối thiểu


Bốn anh bộ đội nói chuyện với nhau dẫn đến tranh cãi vì có một anh bảo Bác Hồ là người Nghệ An quê anh, liền có ý kiến cãi lại, Bác Hồ là người Thanh Hóa. Cuộc tranh cãi chỉ ngã ngũ bằng biểu quyết. Kết quả mọi người đều phải công nhận Bác Hồ là người Thanh Hóa, vì chỉ có một ý kiến bảo Bác Hồ là người Nghệ An của một anh bộ đội quê Nghệ An. Ba anh bộ đội còn lại đều quê Thanh Hóa nên đều biểu quyết Bác Hồ là người Thanh Hóa!
Rõ ràng, cuộc biểu quyết rất dân chủ, công khai, minh bạch nhưng đã dẫn đến kết quả trái sự thật: Bác Hồ là người Thanh Hóa!

Người Phương Tây đã trải qua dân chủ nhiều thế kỷ nên gọi cái “đa số” kể trên là “đa số tối thiểu” (majorité minimal)! Vì thế, chọn người ra ứng cử Tổng thống, các đảng đều chọn trong toàn đảng. Tổng thống phải được bầu chọn trong toàn dân. Đa số ấy mới là đa số chân thật, đa số tin cậy.

Trích bài của Lê Phú Khải.

Nhạc Sĩ Nguyễn Văn Tý và Dư Âm Tuổi Già

Tôi ghé thăm nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý vào buổi chiều cùng ngày trước khi trở lại Hoa Kỳ.  Đối với hầu hết người Việt tại hải ngoại, họ chỉ nghe đến tên ông qua tuyệt phẩm Dư Âm. Họ không biết ông có những tác phẩm khác.

Riêng tôi, nhiều năm về trước muốn biết tác giả Người Đi Xây Hồ Kẻ Gỗ, Một Khúc Tâm Tình..., Dáng Đứng Bến Tre.   Không ngờ ông cũng chính là tác giả Dư Âm!   

Lần đầu biết đến nhạc của ông, giữa đêm khuya trên sân vườn hoang vắng, người bạn hát bài Kẻ Gỗ.  Ba chúng tôi đứa bắc, đứa nam, đứa trung.  Cả ba là dân vượt biên lại xúc động cực cùng trước lời ca nặng âm hưởng Nghệ Tĩnh.   Chúng tôi ngưỡng mộ người nhạc sĩ tải được giọng điạ phương vào nốt nhạc của mình. Lời ca, lời nhạc thắm đượm tuổi trẻ, tình người dành cho quê hương.

Tôi tới thăm ông, không hẹn trước để biết cuộc sống thường nhật như thế nào.  Trong căn nhà nhỏ 94/19 Trần Khắc Chân, Q1, HCM, cuộc sống ông rất khó khăn nghèo nàn.  Ông đã trải qua hai cơn tai biến, đi đứng cần có dụng cụ hỗ trợ.  Đã trên 80, tai ông không còn nghe rõ âm thanh nên không còn sáng tác, tuy nhiên giọng nói ông vẫn còn trầm mạnh, trí tuệ minh mẫn.  

Trong suốt hơn một giờ chuyện trò cùng ông, qua nhiều đề tài, điều làm tôi buồn chính là vấn đề tác quyền mà các trung tâm nhạc hải ngoại không đoái hoài  tới.  Những trung tâm lớn như Thúy Nga, Asia đã xử dụng nhạc của ông rất nhiều trong mấy mươi năm qua.  Nhất là cuốn Asia 55, bên cạnh hát nhạc còn đăng cả phóng vấn, hiệu đính theo chủ trương chính trị của họ.  Thế nhưng theo lời ông:  các trung tâm này chẳng đoái hoài đến ông.

Tôi thật sự không hiểu các trung tâm tại hải ngoại chi tiền triệu usd để sản xuất những chương trình vĩ đại như thế, o bế phỏng vấn ông như thế lại phủ phàng với ông đến thế!  

Hiện ông sống nhờ vào tiền  do một hội bảo vệ tác quyền thu được từ các chương trình trong nước, ngoài ra là sự giúp đỡ khi có khi không  từ người mến mộ, các cơ quan, hội thiện nguyện.  Tuổi già ông hiện sống trong bịnh tật, nghèo khó.

Nghe ông kể về cảnh ngộ, tôi xin phép ông quay phim bằng máy chụp hình.  Đoạn phim chi có 3 phút sẽ cho chúng ta biết rõ những phi lý, bất công như thế nào, và ông nghèo khó cần giúp đỡ ra saọ.  Hy vọng sẽ có nhiều người biết về hoàn cảnh và giúp đỡ thêm cho ông.

Gởi tặng ông món quà nho nhỏ, chút ít tịnh tài. Chia tay ông, tôi rời VN với lòng nặng chĩu.  Định công việc đầu tiên là tải đoạn phim lên mạng nhưng máy computer dùng để hiệu đính phim bị hư nên mãi đên 1 tháng sau tôi mới thực hiện được.  Xin thành thật tạ lỗi cùng ông.

Đây là đường link dẫn đến đoạn phim 3 phút:  http://www.youtube.com/watch?v=NiFHMRZa6SU
 
Huyền Lam
Chuyến đi VN - tháng 7-2011

Đường link đến một số nhạc phẩm của Nguyễn Văn Tý:

Dư Âm
Người đi xây hồ Kẻ Gỗ
Mẹ Yêu Con
Cô Nuôi Dạy Trẻ
Một Khúc Tâm Tình Của Người Hà Tĩnh
Dáng Đứng Bến Tre

Về “Nguyễn Văn Tý, ngồi thức với xa xăm”

Một lần nữa xin lỗi các bạn, với trách nhiệm của mod tôi kg thể kg đưa những NHẬN XÉT (commemt) như thế này ra TRANG CHÍNH.

Đọc bài “Nguyễn Văn Tý, ngồi thức với xa xăm” đăng ngày 5-10-12 Hoàng Trinh Nhận xét như sau:

“VanTrinh Hoang 09:53 17/10/2012
Cám ơn honngv đã post bài tâm sự của Nguyễn Quang Lập về Nhạc sỹ Nguyễn Văn Tý. Mình là một trong những Fan của nhạc sỹ Nguyễn Văn Tý và mình vẫn còn nhớ những ngày thơ ấu của mình ở quê, lúc đó mình mới 6 tuổi - khi nhạc sỹ Nguyễn Văn Tý hoạt động CM tại quê mình giai đọan sau cải cách ruộng đất 1955, cụ tham gia dạy bình dân học vụ cùng với ông chú tôi (cùng trạc tuổi với cụ) tại nhà thờ Hoàng Tộc nhà mình (thôn Trường Yên, xã Thanh Tân, h. Thanh chương, T. Nghệ an). Cụ rất vui tính, yêu trẻ con, ngoài giờ làm việc cụ nô đùa với trẻ con tụi mình, cả làng mình hồi đó ai cũng rất yêu quí cụ. Đọc bài này mình lại toát lên một ước ao làm sao được gặp lại cụ Tý 1 lần nữa trước khi cụ đi gặp bác Hồ”.

HT thân mến!
Rất cám ơn Nhận Xét của HT và cảm động trước tấm lòng của ông đối với NS Ng Văn Tý (NVT). Do đó mình gợi ý cho HT thế này:

Thứ nhất: Ông chỉ cần vào https://www.google.com.vn/  rồi gõ “Nguyễn Văn Tý” (vào thanh trắng giữa màn hình ấy) rồi ấn Enter, sẽ xuất hiện tỷ bài về NVT, tha hồ tìm hiểu và thưởng thức. hehe…

Thứ 2: Mình soạn sẵn các link (đường dẫn) sau đây để các bạn tiện vào luôn, đỡ công tìm trong Google:

- NS Nguyen Van Ty su nghiep & am nhac - part 1
Năm 2009, mừng thượng thọ 86 tuổi, Ông có nhã ý tặng người hâm mộ gần xa Clips ‘Nguyễn văn Tý sự nghiệp & âm nhạc’. (Lưu ý nhà Biên tập đã 'biên tập lại', cụ thể là đã cắt bỏ 1 vài chỗ - honngv).

- NS Nguyen Van Ty su nghiep & am nhac - part 2

- Nguyễn Văn Tý - Những bài ca bất hủ và sự oán trách ...

- Nhạc Sĩ Nguyễn Văn Tý và Dư Âm Tuổi Già (thực hiện ngày 7-8-2011)
Theo clips này, Ông hiện cư ngụ tại: 94/19 Trần Khắc Chân, Q1, TP HCM
(có thể liên hệ qua: Huyenlamblog.blogspot.com , mình chưa thử!)

Thứ 3: HT có thể liên hệ với Tất Nam, đt: 0937 651 314 ,
hoặc qua Ng. Quang Lập (cũng đang ở trong SG), Email: lapquechoa@gmail.com
Cậu cứ gửi Email cho họ, mình nghĩ là họ sẵn sàng giúp để tìm ra đ/c, thậm chí cả số đt của cụ Tý. Có khi chỉ mấy cú đt là xong. Đt cho Nam trước, hắn tìm cho, nhanh thôi mà.

Xem thêm: http://vtc.vn/13-324960/van-hoa/nhac-si-nguyen-van-ty-va-nhung-du-am-con-mai.htm


Chúc HT thỏa mãn ước ao!
honngv

ĐẶC SẮC CA TỪ TỪ MỘT BÀI HÁT

Xem ảnh với kích cỡ đầy đủ
* Lời bài hát đẹp như thơ
post gửi các bạn . Làm ngơ sao đành!
 EM HÁTSáng tác; Nhạc sĩ NGUYỄN VĂN TÝ

Em hát vào gỗ mục-gỗ mục bèn ra nấm
Em hát vào gỗ cứng- gỗ cứng chợt ra hoa
Em hát vào lau khô- lau khô xanh thành ruộng
Em hát vào suối cạn- suối cạn chảy thành sông

Nhưng em, nhưng em vừa lấy chồng
Sao nấm gỗ mục đã tàn
Hoa gỗ cứng đã rụng
Ruộng lại thành lau khô
Sông lại thành suối cạn

Em lấy chồng rồi- chỉ hát chồng nghe thôi
Trời sao buồn thế trời
Đất sao buồn thế đất
Em đã lấy chồng rồi- chỉ hát chồng nghe thôi!

NVT

  1. Huế Nguyễn said: Góp ý cùng đồng hương!!!

    12/05/2009, at 10:25 [ Trả lời ]
    Đây là ca khúc "Em Hát" được NS.Nguyễn Văn Tý phổ nhạc từ bài thơ "Em Hát" nhà thơ Hoàng Huế!Nên lời không hay như thơ sao được!!!
  2. Võ Văn Hoa said: @ Anh THANH TỊNH

    27/03/2009, at 18:31 [ Trả lời ]
    "Lời bài hát thật hay
    Hình minh họa ngất ngây
    Chủ nhà khéo chọn đấy
    Khách thăm thấy vui lây
    ...
    hây hây!!!"   
  3. Mình biết nói gì đây
    Một đời người một rừng cây...

16 thg 10, 2012

Tây du ký hay mãi với thời gian



 
 Tại sao Tây Du Ký luôn được ưa chuộng bất kể thời gian?
     Vì ở thời đại nào, không gian và thời gian nào, nó đều mang đến cho ta những bài học giá trị, như cái thời này.
   >  Khi Tôn Ngộ Không chuẩn bị giơ gậy giết yêu quái thì luôn có một vị Phật nào đó xuống nói là : "Nài, nó là thú cưỡi của người này", "Nài, nó là cháu của người kia", "Nài, nó là con của người nọ" ...
    * Ý nghĩa: Mấy đứa làm chuyện ác toàn là con ông cháu cha.
   > Trên đường đi thỉnh kinh tất cả các rắc rối đều do cái "ngu" của Đường Tăng mà ra.
    * Ý nghĩa: Mấy thằng ngu lúc nào cũng làm sếp.
   >  Bát Giới xu nịnh nhưng lúc nào cũng được ăn no, ngủ kỹ.
    * Ý nghĩa: Mấy thằng nịnh hót thường được sung sướng.
   >  Sa Tăng thật thà và lúc nào cũng bưng bê khuân vác, bao nhiêu việc nặng đều làm hết.
    * Ý nghĩa: Thật thà lúc nào cũng thiệt thòi.
   >  Tôn Ngộ Không tài giỏi xuất chúng và bị Đường Tăng cho đeo 1 cái vòng kim cô, nhưng lúc nào cũng là thằng đầu tiên phải xông vào hang cọp cứu "sếp".
    * Ý nghĩa: Người tài luôn bị sếp kìm hãm (vòng kim cô), không có cơ hội phát huy tài năng và gặp chuyện gì nguy hiểm gì thì cũng là thằng lĩnh đòn trước tiên thay cho sếp.
   > Bạch Mã chân dài đến nách nhưng cũng chỉ làm thú cưỡi cho "sếp".
    * Ý nghĩa: Đẹp mà không có "cái đầu" thì cũng chỉ làm "thú cưng" cho "sếp" một thời gian. Khi già, yếu sẽ bị thải ra để tuyển "ngựa mới".

    Nguồn: Facebook ; Nhặt từ xuandienblog

Làng tôi -1


Gõ đại bởi honngv, 9/2012 

 


Honngv: Tuổi thơ mỗi người một khác. Nay đã U70 chẳng còn nhớ được bao nhiêu. Nhưng những gì tôi ‘gõ đại’ sau đây đều là sự thật 100%, đã ‘ghi chết’ vào đầu tôi mà kg gì xóa đi được, trừ khi về với Tiên Tổ. Tôi chỉ ghi lại những ‘sự kiện lớn’, vui vui và cố tình bỏ qua những gì 'cần bỏ'. Lần đầu tiên ‘viết’, bắt chước kiểu ‘khẩu văn’ (chữ dùng của thợ văn Nguyễn Quang Lập) nên láo nháo, kg hay là cái chắc mong anh chị em và các bạn NHIỆT TÌNH đóng góp ý kiến qua fần NHẬN XÉT.
Xin cảm ơn !

Làng tôi trước khoảng những năm 60 của thế kỷ trước có tên là làng Bất Nạo. Vào Google chấm tiên lãng kích fát ra cỡ ‘tỷ’ làng, ‘tỷ’ tổng trên cả nước chung cái tên này. Thế mới biết trước đây các Triều đại fong kiến hoặc người Pháp đặt địa danh hay chừng nào, (có hay mới nhiều như vậy). Cũng qua Gúc cho hay “Bất Nạo” hiểu nôm na là “không cong”, kiên định. “Bất Nạo” nghe có vẻ nho nhã, học thức hơn tỷ cái tên cải lương, dở hơi hiện nay như Quyết Tâm, Quyết Tiến, Quyết Thắng… Nghe cứ như hô khẩu hiệu, trong khi dân cần chó gì đến quyết tiến với chả quyết thắng. Dân cần cơm áo gạo tiền, cần kẻ nói có người nghe! Phải chăng việc đổi tên như vậy đã ‘vô tình’ (?) làm lùn đi nền Văn hóa Đại Việt, cái văn hóa làng xã lâu đời của dải đất ‘lưng còng’ này! Và nó cũng làm lùn đi cái tri thức của muôn dân.

Nói như Trịnh Công Sơn, dân làng tôi thật quá ‘long đong’. Thuở nhỏ nghe các Cụ kể lại, làng tôi đã fải dời làng đến mấy lần. Còn nhớ năm tôi 3-4 tuổi (1953-1954) làng tôi cách đường 5 và đường sắt Hà Nội – Hải Phòng chỉ hơn 1 cây số, lại nằm sát bờ sông Quỳnh Khê, con sông nhỏ, không những cung cấp nước tưới cho cả huyện mà còn cấp nước ăn cho dân cả thành phố Hải Phòng.

Dọc đường 5 Pháp lập rất nhiều làng tề. Nhưng dân làng tôi (đúng ra là Việt Minh xui) ‘cứng cổ’, không những không lập tề mà du kích làng còn hoạt động rất mạnh. Các ông bà du kích, chẳng biết bằng cách nào (nghe chú tôi kể rồi nhưng quên) thường chôn mìn làm nổ tung rất nhiều đoàn tàu xe quân sự của Pháp.


Cứ sau mỗi lần như vậy quân Pháp lại tăng cường đi càn trong làng để tìm diệt du kích, kể cả những người mà chúng cho là có dính lứu đến du kích. Thành thử tất cả đàn ông (tôi gọi bằng cha chú) trong làng dù không là du kích đều bị Pháp đánh, tra tấn rất giã man hoặc ngay trong làng hoặc sau khi bị bắt lên đồn. Ông chú tôi được nếm quá nhiều lần đòn của Pháp đến độ bị điếc cả đời. Bố của ông bạn nối khố với tôi bị bắn ngay trong làng. Vào cái năm tôi 3-4 tuổi ấy, để fục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ đang diễn ra, theo chỉ thị từ trung ương, du kích làng tôi càng đánh đổ nhiều tàu xe của Pháp. Hậu quả quân Pháp càng lùng sục tợn. Tôi còn nhớ, một đêm mẹ tôi đang ôm tôi ngủ thì 3-4 lính Pháp xộc thẳng vào nhà bắt bố tôi. Lần đầu tiên tôi thấy người Pháp. Chúng lôi ông ra bờ sông tra tấn. Nằm trong nhà tôi nghe rõ những tiếng huỳnh huỵch, tiếng kêu ôi, ối... Chắc chúng dùng báng súng đánh ông. Tôi sợ fát khiếp, khóc rống lên. Nhưng mẹ tôi bịp mồm tôi lại. Tôi chỉ biết nói đi nói lại: mẹ đi cứu bố đi. Mẹ tôi chỉ ậm ừ dỗ tôi. Sau đó thế nào tôi không nhớ, chỉ mãi về sau khi đã lớn tôi mới fát hiện một đầu ngón tay của bối tôi bị quặc vuông góc, không duỗi ra được. Ông nói đó là do bị trận đòn năm ấy.

Rồi không hiểu nguyên cớ gì, bé tí tôi đã fải chứng kiến cảnh dời làng. Cũng như khi ‘chạy giặc’ – chạy tránh các trận càn của quân Pháp - tôi được mẹ cho ngồi trong 1 cái thúng đặt vào 1 bên quang, bên kia là nồi niêu, chổi cùn rế rách mà gánh đi. Làng mới chỉ cách làng cũ không đầy 1 cây số, nhưng rất gần con đường liên huyện, đường 188. Dọc con đường này, cứ cách khoảng 3 cây số Pháp lại xây 1 bốt bê tông cốt thép, xung quanh nhiều lỗ châu mai. Trên nóc đặt 1 khẩu súng máy, thân fình to, như con ba ba, quay được 4 xung quanh. Dân làng gọi là ‘súng ba ba’. Sau này lớn lên tôi nghĩ làng tôi fải dời đến gần đường 188 là để thuận tiện cho việc kiểm soát của quân Pháp. Đầu làng vốn có ngôi chùa thiêng lắm, gọi là chùa Sơn. Pháp bắt fá bỏ để xây bốt. (20 năm sau học đại học, sơ tán tận Hà Bắc, có người vô tình chỉ xem bàn tay tôi mà nhắc tới ngôi chùa này. Sợ!). Kề sát bên Chùa là Giếng Chùa Sơn, nước rất trong. Ngày bé tôi thường gánh nước ăn từ giếng này. Nay giếng vẫn còn. 

Tuy vậy ngày hòa bình lập lại (1954) làng tôi chả ồn ào, ầm ĩ gì. Chỉ thấy có ông cậu tôi về làng từ lính ‘giải fóng Điện Biên’, lính cụ Giáp. Cả cuộc đời ông sau này toàn đói kém, bần hàn.

Yên bình được khoảng 2 năm thì cải cách ruộng đất. Làng tôi (cũng như bao làng quê khác trên miền Bắc) vừa thoát khỏi ách đô hộ của Pháp lại lâm vào ‘cảnh nồi da nấu thịt’ do ‘quân ta đánh quân mình’. Khắp cả làng, người thì ủ rũ, kẻ thì khí thế hừng hực, đâu đâu cũng thấy rỉ tai xì xào, nặng bầu không khí cảnh giác ngờ vực lẫn nhau. Câu nói đầu lưỡi của mọi người là ‘thầy đội, thầy đội’. Các thầy đội này đi lại nghênh ngang trước sự khúm núm của dân làng và bất kỳ lúc nào cũng đánh, đấm những người đang bị cùm chân mà chẳng cần rõ nguyên cớ nào. Chuồng trâu nhà tôi trở thành 1 trong những nơi cùm giam những người gọi là địa chủ, những người còn mới hôm qua tạo giúp miếng cơm, manh áo, con trâu, cái cày cho những người hôm nay đấu tố họ. Tôi còn nhớ những cái cùm gỗ to chắc nặng, kẹp cổ chân đến tóe máu, đến mưng mủ của những người giỏi làm ruộng này. Quần áo họ tả tơi, người, mặt thâm quầng lộ rõ những chỗ bị đánh. Hằng đêm cứ thấy bố mẹ tôi thì thà thì thào, rồi thậm thụt mang khoai, cơm nắm xuống chuồng trâu dúi cho những người bị cùm. Bọn trẻ chúng tôi thường ngồi xem và nghe lỏm các cuộc đấu tố, những lời tố thô thiển, tục tĩu, vu cáo đến trắng trợn. Mãi sau này các chú kể lại tôi mới hiểu và mới biết có người Tàu giám sát trong các cuộc đấu tố đó. Có buổi sáng bọn trẻ chúng tôi theo dân làng đi xem một vụ xử bắn địa chủ. Tôi không muốn kể lại tỷ mỷ vì ai cũng biết cả rồi, chỉ nhắc lại một điều: trước khi bắn họ, người ta vẫn còn làm nhục họ một cách thậm tệ.
Sau cải cách ruộng đất, làng tôi xác xơ, tiêu điều, ảm đạm. Dù còn bé tôi vẫn thấy được cảnh chia rẽ, chửi bới, cấu xe lẫn nhau, kể cả những người trong cùng một họ.

- “Làng tôi”, MP3, ca sĩ Bảo Yến trình bày, thể loại Tiền Chiến, chất lượng 320kb
-  “Giọt Nước Mắt Cho Quê Hương”, tác giả Trịnh Công Sơn, Trình bày ca sĩ Kim Ngọc, chất lượng 192kb