19 thg 9, 2012

Phòng khi bị bệnh


honngv - Mình post bài này để mọi người tham khảo, rút kinh nghiệm nếu chẳng may mắc bệnh .

Có bệnh thì vái tứ phương
Ng. Quang Lập, THÁNG 9.8.2011

    Khi còn khỏe mạnh mình thấy lắm kẻ dại quá là dại, nghe mồm mấy ông lang vườn, mấy ông sư hổ mang, mấy thầy phù thủy dở người chỉ tổ tốn kém mất thời gian chẳng được cái gì. Mình rất ngạc nhiên khi thấy có những người trí lự phi thường như anh Nguyễn Minh Châu, anh Hoàng Phủ Ngọc Tường vẫn cứ hồn nhiên tin tưởng mấy ông lang băm mà người thường chỉ nghe họ nói đôi câu đã biết ngay họ là lang bịp.
    Anh Tường (Hoàng Phủ Ngọc Tường) bị tai biến, liệt cứng, không có cơ hồi phục, bệnh viện bó tay. Khổ thân chị Dạ (Lâm Mỹ Dạ) đã đưa anh đi khắp nước, cứ nghe ở đâu có lương y, thần y trị được bệnh này chị đều đưa anh đến cả. Có ông “thần y” chữa bệnh rất tức cười, ông vừa đọc thần chú, vừa lấy mảnh chai rạch đầu anh Tường bảo là lấy máu độc. Mình hoảng lên, gọi điện cho chị Dạ, nói chị đừng có nghe mấy thứ tào lao, để người ta rạch đầu nhiễm trùng, nguy hiểm lắm. Chị Dạ thở dài, nói rứa em nói chị phải mần răng? Người ta cam đoan chữa lành cho anh không lẽ chị từ chối.
    Anh Châu (Nguyễn Minh Châu) bị ung thư máu, anh thừa biết bệnh này trời cứu. Anh Châu là người tư duy mạch lạc, đầu óc rất thực tiễn, không môt gram đồng bóng không dễ gì lại đi tin tưởng vớ vẩn được. Thế mà anh tin. Chả biết tờ báo nào đưa tin có ông sư nào ở Đồng Tháp chữa được bách bệnh bằng thuốc lá, đặc biệt là bệnh tiểu đường, gan nhiễm mỡ và ung thư máu. Chị Danh vợ anh nghe vậy liền đưa anh lặn lội vào Nam. Hồi này tàu xe khó khăn không phải như bây giờ, đưa một người bệnh nặng đi xa thật vô cùng vất vả. Mình nghe vậy liền gọi điện cho anh, bảo anh đừng có tin nhưng anh đã đi rồi, lại đọc báo nghe nói anh uống thuốc lá mười phần đã đỡ đến sáu bảy. Nhiều người cười mình, nói đấy, mày thấy chưa, cứ tin khoa học cho lắm vào, cuộc đời có lắm điều kì diệu, cứ cực đoan  duy lý bỏ qua những điều kì diệu Trời Phật ban cho có phải ngu không.
    Tháng sau anh ra Hà Nội, mình đến thăm. Vừa mở mồm hỏi món thuốc lá ông sư thế nào anh đã xua tay cười buồn, nói mày đừng mắng anh ngu. Khi người ta không còn gì nữa để mà hy vọng, hễ ai xón ra cái gì là người ta vồ ngay cái đó. Xưa mình toàn cười mấy ông bạn ốm đau không lo chạy chữa tây y, toàn nghe đồn đại tào lao tốn tiền mất thời gian. Đúng là cười người hôm trước hôm sau người cười.
    Mình cũng chẳng hơn gì anh Châu.
    Mình bị bệnh tai nạn chấn thương sọ não, liệt nửa người từ 2001. Từ khi đổ bệnh đến giờ liên miên những người mách bảo, người bảo thuốc nọ thuốc kia hay lắm, người bảo thầy này thầy nọ giỏi lắm. Thoạt đầu mình nghe theo hết, ai bảo gì cũng nghe. Có những loại thuốc đắt điếc tai như An cung ngưu hoàng hồi đó một viên 800 ngàn, mỗi ngày hai viên uống liền hai ba tháng trời cũng không tiếc. Nghĩ bụng miễn sao mình lành bệnh, người làm ra của, lo gì. Sau rồi nản, uống mãi chẳng thấy gì, lại gặp mấy ông lang lừa, mất cả đống tiền vì họ, tức lắm. Trong gần hai năm “vái tứ phương” nhà mình tốn tiền tỉ, vừa tiếc tiền vừa giận mình ngu.
    Cuối năm 2002 thằng Sơn ( Nguyễn Thanh Sơn) đưa mình sang Singarpore đến bệnh viện Parkway, một bệnh viện rất nổi tiếng của Đông Nam Á. Bác sĩ Hồng Kông hay Đài Loan chi đó, tên gì quên mất rồi, trực tiếp khám cho mình.  Người ta bảo ông này rất giỏi, mỗi tuần chỉ bay sang Parkway khám bệnh có một ngày, mình gặp may, sang đúng ngày ông khám, mừng lắm. Sau khi xem phim chụp não của mình rất kĩ lưỡng, hỏi chuyện dăm bảy câu, ông đưa ra hai lời khuyên quan trọng đến nỗi mình không quên một chữ. Một là, bệnh của anh để lâu quá rồi không chữa được, không có một thứ thuốc nào, một can thiệp y học nào có thể chữa lành, khá hơn một chút cũng không. Hai là, chỉ có tích cực tập luyện mới có thể cứu anh thoát khỏi thực trạng này.
    Chính lời khuyên lạnh lùng, không hề có mùi vụ lợi của ông bác sĩ làm cho mình tỉnh ngộ.Từ đó mình quyết định chống nạng bước ra đời. Ngày đầu bước được chục bước đã mệt bã người, mồ hôi ướt sũng cả áo quần. Ngay sau mười một bước, rồi mười hai bước… Cho đến một nghìn bước, mình bỏ nạng tự đi. Cũng dấn bước một từ trăm mét, cứ mỗi ngày dấn thêm mười mét cho đến năm nghìn mét… ròng rã đúng hai năm trời. Bây giờ đi đứng vẫn còn chấm phẩy nhưng chắc khỏe, nhiều người cùng bị như mình nhìn mình mà thèm.
    Suốt bảy năm mình an phận, chấp nhận sống chung với lũ, chỉ có tập luyện, tuyệt không tin một sự kì diệu nào, một phép thần thông nào. Vào Sài Gòn, mình nghe nhiêu người bảo ông thầy Võ Hoàng Yên giỏi lắm, bấm huyệt chữa bệnh kì tài, bao nhiêu câm điêc, bán thân bất toại qua tay ông đều khỏi cả. Mình chẳng tin, đọc báo thấy khen ông nức nở cũng không tin, vào trang web của ông càng đọc càng không tin. Bấm huyệt châm cứu may ra có thể chữa liệt do thần kinh ngoại biên chứ liệt do thần kinh trung ương thì đến thánh cũng bó tay. Tất cả những bệnh do tai biến, chấn thương sọ não, trong vòng 6 tháng đổ lui mới hy vọng cứu được, một năm trở lên thì đừng có mà mơ.
    Cho đến khi xem vtv1, thấy ông bấm huyệt cho một thượng tá công an, bấm xong một phát, ông công an đưa tay lên gãi đầu liền. Mình choáng, té ra có phép thần thông thật. Mình quyết định lên Bình Phước tìm ông thầy. Trước khi đi, mình nói với Huy Đức, nói ông ngồi đợi tôi về nhé. Thầy bấm huyệt xong, tôi không thèm đưa tay gãi đầu, tôi thò tay bóp dái ông một phát, he he.
    Mình vào nhà chùa, hình như chùa Quang Minh thì phải, thấy người chữa bệnh đông nghìn nghịt, nhờ thằng Phong ở Đài truyền hình Bình Phước mình mới có thể chen vào được. Mình ngồi hàng ghế đầu, quan sát thầy chữa 25 ca, nghe thầy hò hét tưng bừng, người vỗ tay ầm ầm nhưng kì thực không một ca nào chữa khỏi. Chả biết trước đó thầy có chữa được cho ai lành bệnh không chứ mình “mục sở thị” 25 ca thầy chữa thì không có một ca nào khỏi, dấu hiệu của sự khỏi cũng không, thực là như thế. Thấy bấm huyệt vặn gân y chang mấy ông thầy chữa sái khớp trẹo gân, chẳng có gì đặc biệt.
    Chỉ thấy mồ hôi thầy ướt đầm, không lấy của ai một xu thì biết thấy chữa vì lòng thành, không hề vụ lợi.
   Mình ngồi xem thầy bấm huyệt, nhớ lại cái cảnh thầy bấm huyệt ông thượng tá công an trên vtv1 mới giật mình, nghĩ bụng mình già đời ti vi mà cũng mắc lỡm ti vi. Nó dựng phim bắt đầu từ khi thầy bấm huyệt, không hề cho xem tình trạng cái tay ông thượng tá trước đó thế nào. Biết đâu trước đó tay ông đã gãi đầu được thì sao? Ai đời thuở chữa liệt do thần kinh mà thầy  bấm huyệt thì ít, vặn bẻ tay chân thì nhiều, chữa bệnh câm do thần kinh mà thầy thò tay bẻ hàm lôi lưỡi, sợ chết đi được. Nghĩ vậy mình tính tháo lui, nhưng bà vợ đứng sau lưng, mình tháo lui thế nào bả cũng mắng không kiên trì, sợ đau. Thôi thì cứ để thầy bấm xem sao.
    Ngồi chờ từ 3h đến 5h30 chiều, thằng Phong nháy mắt với thầy nhiều lần thầy mới để mắt tới. Thầy đến chỗ mình, chẳng hỏi han khám xét gì sất, nói nhà văn à, nhà văn viết cái chi, có chịu đau được không… vừa nói thấy vừa bấm bấm vặn vặn đẩy đẩy đập đập… đau điếc tai, mình cắn răng chịu đau chảy cả máu miệng. Xong rồi thầy hỏi đỡ chưa, mình dạ. Thầy lại hỏi đỡ thật không, nhà văn đừng có nói láo nhé, mình lại dạ. Tất nhiên mình phải dạ cho phải phép, vô lẽ mình bảo chẳng đỡ chút nào. Mình dạ ba bốn dạ, thầy ngoảnh mặt tươi cười nhìn mọi người, nói bà con thấy chưa. Mọi người vỗ tay ầm ầm. Mình đứng dậy đi ra, cả nhà chùa vỗ tay vang dội, nhiều người chạy rật rật đuổi theo mình hỏi han tới tấp. Chẳng ai biết trước đó mình đã đi như  vậy, giờ vẫn đi như vậy khác gì đâu, giống như mình xem ti vi thấy ông thượng tá công an đưa tay gãi đầu vậy,  hi hi.
    Mình rời cửa chùa vừa tức vừa tức cười, đúng là không cái ngu nào giống cái ngu nào, hi hi.

Thất vọng với GS sử học Lê Văn Lan


07:50 18 thg 9 2012 Công khai 1662 Lượt xem
    Hôm qua, cuối ngày mới đọc cái bài phỏng vấn ông Lê Văn Lan, giáo sư sử học nói về việc xây bảo tàng Lịch sử VN mới biết, ông khẳng định: xd cái bào tàng đó là "cần thiết".
   Trước đây thấy ông rất năng nổ trong các hoạt động về nghiên cứu, đánh giá, giảng dạy...về lịch sử, có ý kính trọng. Tự dưng đọc bài này thấy mình phí tâm.
   Vâng, nếu quốc khố Việt Nam đang dồi dào, xây dựng một bảo tàng nữa cũng có thể ...Nói có thể thôi đấy !
   Nhưng vấn đề là cái bảo tàng hiện đang có đã là một công trình kiến trúc rất đẹp, đủ rộng để đón khách tham quan. Làm phong phú thêm các hiện vật trưng bày, thu hút người dân, khách du lịch tới còn là việc làm chưa đâu vào đâu. Làm thêm cái bảo tàng mới, như blogger Đào Tuấn đã viết rồi, lại thêm một cái "chùa bà Đanh", chủ yếu để cho thuê phòng tổ chức đám cưới...
   Đúng cái lúc dân tình, doanh nghiệp kêu khổ  vì kinh doanh, đời sống khó khăn, cộng thêm thuế, phí nặng nề, vật giá lại chuẩn bị leo thang bởi giá xăng 5 lần tăng liên tiếp...bão lũ liên miên xảy ra nơi vỡ đê, nơi vỡ đập...bao nhiêu thứ cần tiền mà ns cạn kiệt. Thế mà giáo sư LVL lại cho là xây bảo tàng đồ sộ lúc này là cần thiết.
   Mấy hôm trước, ông giám đốc bảo tàng lịch sử vn cũng nói là dự án mới là rất cấp thiết.
   Dường như có một kế hoạch truyền thông nhằm phản bác thông tin, bình luận trên báo chí là nên đưa dự án công trình bảo tàng này vào...bảo tàng ?
   Hỡi ôi !xưa nay, những người làm sử luôn luôn được kính trọng bởi họ luôn ghi lại, phê phán những hành động không đúng của người đương quyền, làm trái nguyện vọng của dân, chi tiêu bừa bãi làm hao mòn, kiệt quệ sức dân.
   Thế mà ngày nay, có những người nghiên cứu, làm công tác sử học lại vào hùa, cổ xúy cho những hành động đó.
   Nên nhớ, ngay trong cấp chính quyền, người ta cũng nhận ra là việc chi tiêu công không đúng lúc, đúng mức...gây nên những bất ổn kinh tế vĩ mô hiện nay. Thì việc mấy ông không hiểu rõ toàn cảnh đất nước, lại muốn làm nặng nề thêm cái sai của các bộ. Thế thì tội các ông chẳng phải là nhỏ.
   Các sử gia lớn trước nay của Việt Nam như Lê Văn Hưu, Ngô Sĩ Liên, Phan Phu Tiên...khi chép sử cũng rất chú ý ghi lại, phê phán những hoạt động xây dựng cung thất xa hoa, bừa bãi của một số quân vương các triều đại trong lịch sử khiến dân tình, phu phen nhọc mệt, hao tiền, tốn của quốc gia....khiến các triều đại đó đi vào suy vong. Nhìn sang Trung Quốc, ở các triều đại: Tần, Tùy...các sử gia lớn cũng thường cho rằng, việc cho xây dựng các cung điện, đền đài....huy động quá nhiều sức dân, của cải, nguồn lực xh...cũng là một nguyên nhân chính khiến các triều đại này diệt vong.
   Cho nên, là những người làm về lịch sử, như GS Lê Văn Lan, cũng nên nhớ đến các tiền nhân-các sử gia để đưa ra những đánh giá, nhận định cho đúng, để khỏi xa lạ với truyền thống của những người làm công tác lịch sử: nghiên cứu, giữ gìn những giá trị lịch sử...nhưng cũng không quên trách nhiệm với hiện tại của đất nước.

Rút từ blog.yahoo.com

Gía đừng !

04/11/2011, hoamai1

Giá em đừng nói lời yêu,
Để tim tôi đỡ trăm chiều xót xa.
Giá đừng da phấn mặt hoa,
Giá đừng hiền hậu nết na ... giá đừng
Tôi với em vốn người dưng
Mà sao lại nhớ lại thương thế này?!
Ngồi buồn bứt sợi cỏ may
Đan thành chiếc nhẫn chờ ngày tặng em.
Vậy mà em đã vội quên,
Những lời hò hẹn nên duyên hôm nào...
Giá tôi đừng ước đừng ao,
Thì đâu đến nỗi lạc vào bến mê!

Lương thiện với chính mình ?!


Ng. Quang Lập
…. Chẳng nhớ quen Huy Đức từ lúc nào, hình như hơn hai chục năm rồi, thời nó viết truyện ngắn “Dòng sông cụt thì phải”. Truyện đó nó ký tên Trương Huy San, in ở Văn Nghệ Quân đội, ai đọc cũng thích. Nó viết về cái thời duy ý chí làm thủy nông ở Nghệ Tĩnh, nghe lời Trương Kiện đào bới lung tung, giọng văn tưng tửng không hề xốc xỉa nhưng mà đau, đau lắm.

 HuyDuc-05-p

Đám văn trẻ tụi mình sướng lắm, văn chương giả cầy vô thiên lủng, chỉ cần xòe tay khua nhẹ cái được cả nắm, kiếm được ông văn miệng có gang có thép thời nào cũng khó, thời này càng khó hơn.
………….
Trông cái dáng lờ vờ, ngồi đâu cũng nhường phần sắc sảo cho người khác, ít ai mới gặp đã ấn tượng, chỉ khi nói chuyện cà chớn, trêu chọc nhau mới ló chút thông minh, còn thì như gà rù, nói chuyện như người đời sơ nói, ấy thế mà bất kì bài báo nào cũng đạt đến cái tầm khái quát cao, sức nghĩ sâu rộng, nếu không đủ độ để thán phục thì cũng không thể coi thường.

Hôm ngồi uống bia với thằng Tín ( Nguyễn Trọng Tín), Tín cũng làm ‘Sài Gòn tiếp thị’ với Huy Đức, nhân nói chuyện Huy Đức thôi việc, nó uống cạn cả cốc to bia đen, khà một tiếng rõ to, vuốt mặt hai ba cái, nói tui nghĩ chán ra rồi, nước Nam mình có mấy thằng làm báo được như Huy Đức, hổng có, hổng có ai… đú má.

Có thể vì bức xúc mà thằng Tín nói quá đi, mình nghĩ thế. Mình chạm cốc với thằng Tín, nói có trí lực để viết những bài báo như Huy Đức cũng không ít người, cũng không ít người có thể viết hay hơn, nhưng có cái tâm sáng trưng như thằng Huy Đức để nói thẳng, nói to những điều tâm huyết như nó thì quả là hiếm. Người ta hay tán cái dũng của nó nhưng tôi nghĩ không phải, nó có chống đối ai đâu mà nói đến cái dũng.

Nghe nói đến cái dũng, thằng Tín cười sặc, phun cả bia ra bàn, nói đúng đúng, ông nói làm tôi nhớ đến câu thơ của Yevtushenko
Sống cái đời gì kì cục quá thôi
Dám lương thiện với mình cũng đủ thành dũng cảm.

…. Ở đời sợ nhất là mất cái tình chứ vì cái lý gì đó mà mất thì cái mất ấy cũng nhẹ tựa lông hồng, cần gì phải lo nghĩ; được được mất mất, dại dại khôn khôn mỗi người tự biết lấy, người ngoài bàn tán đôi khi đâm rách việc.

…Buổi sáng quán cà phê phố Hàn Thuyên, mình với nó đang tán chuyện ba lăng nhăng giải sầu, một em chân dài chạy đến vừa nguýt vừa cười, nói chết chưa chết chưa, đáng kiếp đáng kiếp, còn chủ quan nữa không. Nó tủm tỉm nhìn cô nàng, nói em cũng bảo anh chủ quan à. Cô bé dẩu môi nguýt nó, nói chủ quan.

Nó cười, vui vẻ khoác vai cô bé, nói điều tôi sợ mất nhất là tình yêu mọi người dành cho tôi, như cô bé này chẳng hạn. Cô bé véo Huy Đức cái rõ đau, nói yêu anh bao giờ hả hả.

Nó lại nhăn răng (khểnh) cười.

Rút từ Bạn văn của Ng. Quang Lập (Bạn văn 29 - Huy Đức)

18 thg 9, 2012

Tuyệt vời con gái Việt Nam

Sưu tầm được ảnh người đẹp, mời các bạn K14 chiêm ngưỡng






Người mang tâm sự

...Ôi nhìn Thế sự nổi trôi
Cũng đành chấp nhận mà thôi
Để mặc cho con tạo xoay vần !!!


Hoặc theo đường link đây: http://www.youtube.com/watch?v=0IsnovTx7rI
(Nói trước: âm thanh link này cực tồi !)

17 thg 9, 2012

Tình yêu của Đồ Nghệ (Tất Nam khi xưa) qua phương ngữ


TS Hà Nguyên Đối
    Có lẽ, cái khác biệt dễ nhìn thấy nhất trong tình yêu đôi lứa của con người xứ Nghệ so với những vùng miền khác là thứ men say tình yêu ấy được biểu hiện qua phương ngữ với những từ ngữ  “đặc Nghệ”
              Khi nào kiềng sắt bén mun
             Chàng hun má thiếp, thiếp hun má chàng
             Diết da da diết quá chừng
             Em cho anh chụt một cái, em đừng kêu đau
                                                            (HPV, tr. 299)
    Ở đây, người ta không dùng từ “hôn” mà dùng từ “chụt”, “hun” để chỉ nụ hôn- vốn là bức thông hành của tình yêu. Nghe “hun”, “chụt” khiến ta từ cảm nhận được âm thanh và tưởng tượng đến động tác để hiểu cái sâu đằm của nụ hôn người Nghệ. Đồng thời, cũng cho ta thấy một kiểu ứng xử rất rõ ràng, minh bạch, đắm say đến hồn nhiên của gái trai nơi đây.
    Hoặc như trong bài vè “ Thương anh lắm anh ơi”, mật độ phương ngữ cũng xuất hiện dày đặc:
                  Nước uống nỏ muốn rót
             Cơm ăn nỏ muốn nhơi
             Cầm lấy đũa đũa rớt
             Cầm lấy đọi đọi rơi
             Thày hỏi: vì răng rứa con ơi?
             Mẹ hỏi: vì răng rứa con ơi?
             Con lặng lặng trả lời:
             Vì sầu riêng bạn cộ
             Ngơ ngẩn sầu bạn cộ
                     (KTVXN, t3, tr.432)
    Ở đây, chỉ diễn đạt tình thương yêu mà kéo dài đến 20 câu (trong đó có 17 câu bằng và 3 câu trắc). Người đọc phải đọc một hơi, người hát cũng phải hát một hơi, không nghỉ, không kịp thở để tuôn ra cho vơi, cho cạn nỗi nhớ thương, niềm yêu đương đang dồn nén, ức chế trong tâm can. Đièu đặc biệt ở đây, ta thấy tác giả dân gian đã dùng rất nhiều phương ngữ xứ Nghệ. Phải chăng những phương ngữ được dùng đã góp phần đẩy nhanh tiết tấu của bài, “tuôn” nỗi nhớ nhung da diết đến địa chỉ cụ thể - “bạn cộ” (bạn cũ). Chúng tôi đồng tình với Ninh Viết Giao khi nhận xét bài vè trên: “17 câu đề vần bằng, âm mở thể hiện tình cảm triền miên lai láng, câu trắc “uống nước nỏ muốn rót” là tiếng nấc, nấc vì nghẹn ngào, nấc vì nỗi nhớ dâng lên trẹn cổ họng. Qua một đoạn ấy thôi, chúng ta cũng biết tình yêu của trai gái Nghệ Tĩnh như thế nào rồi” [71, tr22].
     Đến với ca dao và vè xứ Nghệ về tình yêu đôi lứa, ta bắt gặp rất nhiều cách ngỏ tình khác nhau. Họ có thể nhờ miếng trầu, qua miếng trầu. Bởi thế mà dân gian mới có câu: “miếng trầu nên dâu nhà người”. Bằng miếng trầu, họ đã nói với nhau niềm khao khát lứa đôi:
              Trầu xanh đĩa ngọc
                Quả cau em róc tứ bề
                Trầu têm cánh phượng em đề đôi câu.
                Em đề chữ ân chữ ái
                Em đề chữ thọ chữ ninh
                Em đề chữ tình chữ tính
                                                          (KTVXN, t3.tr.88)
    Đó là cách ngỏ tình kín đáo mà ta thường thấy ở nông thôn trước đây.
    Ngoài ra, họ còn có thể ngỏ tình bằng cách không nói ngay, nói thẳng vào tình yêu, mà nói từ xa đến gần, nói vòng vo rồi mới đi vào ý chính. Có thể nói đây là cách tỏ tình rất tế nhị. Chẳng hạn như trong bài vè “xuân bất tái lai”, chàng trai mở đầu bằng những câu khen người con gái là “yểu điệu thanh tân”, “thục nữ chuyên cần”… sau đó mới nói đến gia sự của cô ta, gia đình, cũng như tâm tình của anh ta đối với cô gái, rồi cuối cùng mới ngỏ tình, mà cũng rất bóng gió, xa xôi:
            Chim tử quy thánh thót
              Dạ bát ngát lòng sầu
              Nghĩa nặng với tình sâu
              Núi non nào kể xiết
                                                        (KTVXN,T3, tr.237)
    Cách ngỏ tình đó như bướm lượn vòng hoa, ban đầu thường vờn một cách ý nhị, bóng gió, xa rồi gần, gần rồi xa, thật là nên thơ và cũng không kém phần lãng mạn.
    Hoặc, cũng có khi họ tỏ tình trực tiếp. Như trong bài vè “em lấy anh thôi”, người con trai không vòng vo hoa lá, không mượn bóng trăng chỉ nẻo, không mượn con bướm đưa đường mà nói thật, nói thẳng nỗi lòng, ý nghĩ của mình, nói có phần sống sượng, thô lỗ nhưng rất thành thật:
                Thôi thôi anh lấy em thôi
             Trang sức anh sắm đủ rồi còn chi
                                      (KTVXN, t3, tr.118)
    Không những tỏ tìnhmà anh còn hứa hẹn một cuộc sống rất tốt đẹp với cô gái- một cuộc sống giản dị của những người lao động.
    Dù là bày tỏ bằng cách nào thì ta cũng thấy được tình yêu sâu sắc, thầm kín nhưng cũng không kém phần mãnh liệt của các chàng trai, cô gái xứ Nghệ.
    Nói đến tình yêu, ta thường nghĩ ngay đến những lời thề non hẹn biển. Song, khác với lời nguyền nhờ vả trăng, sao, trời, đất của trai gái xứ Bắc, các chàng trai cô gái xứ Nghệ thường lấy nhiều hơn cái chết, sự hi sinh bản thân để bảo vệ tình yêu. Chẳng hạn như:
                      Anh mà không lấy được nàng
             Thì anh tự vận giữa gia đàng nhà em
                                                      (CDNT, tr.130)
     Chúng tôi đã thống kê được ở chương 2, tập 1 trong KTVXN viết về tình yêu đôi lứa, có đến 15 lần trai gái vùng đất này đã mượn cái chết để bảo vệ tình yêu.
                   Hai tay cầm tám gươm vàng
            Chết thì mặc chết, buông chàng không buông
                                                     (CDNT, tr.330)
    Quả thật, cũng khó tìm kiếm một lời hứa, lời nguyện nào lại mãnh liệt đến ghê gớm như gái trai xứ Nghệ khi yêu:
                 Cha mẹ dù có chặt chân, chặt tay
           Khoét mặt, khoét mày cũng trốn theo anh
                                                     (CDNT, tr150)
     Những từ ngữ: “chặt chân”, “chặt tay”, “khoét mặt”, “khoét mày” đã nói lên được bản chất tình yêu trong con người Nghệ Tĩnh. Họ có thể vì yêu mà sẵn sàng làm mọi thứ, thậm chí dám chấp nhận cả cái chết chứ không thể sống thiếu người mình yêu.
    Yêu đến thế là cùng! (câu này của hongv).

Thư giãn cái!


Đận lâu lâu anh đi Las vegas uýnh bạc. Mẹ kiếp, thua mờ mắt. Mò ra khu Pub tênh hếch chân, búng tay tanh tách gọi con phục vụ Tây đùi đoi trễ nải. Anh gọi như nài nài " em ơi, một bia". Hố hố, xong mới biết là nhầm với ở nhà. Nhưng không kịp bởi con Tây kia quảy quả mông óng ả đi tự bảy đời.
Lúc sau, nó bê đến cho anh một cốc bia tươi thật. Thế mới tài.

Kết luận: Bia - ngôn ngữ của thế giới.

***
Anh mắc bệnh hay nhậu. Tối nọ say nhớ được mỗi đường về nhưng đến lúc bấm chuông lại quên mịa mất tên vợ. Anh cứ “ấy ơi, ấy ơi!”. Vợ anh trong nhà nghe giọng chè thiu, lại không gọi rõ tên nên đếu thèm mở cửa. Điên quá, anh rút “alô” gọi cho bố vợ:
- Alố, bố đấy à? Bố cho con hỏi vợ con nó tên gì ấy nhỉ?
- Mày làm gì mà quên cả tên vợ mày thế hả?
- Con đi uống rượu về say quá nên quên mất. Bây giờ vợ con nó không mở cửa cho vào.
- Thế à? Đến tên vợ tao, tao còn không nhớ nữa là tên vợ mày. Đang đứng ngoài đường à? Tao cũng thế thôi!

Lạy giời...
***
Mịa, nửa đêm có tiếng gõ cửa, anh sợ điếu chịu nhưng vẫn phải xuống xem ai. Và anh cũng dại gì mà mở cửa. Anh hỏi:
- Ai đấy?
- Cướp đây.
- Ui đệt! Muốn gì?
- 15 cây vàng.
- 75 cân rưỡi được không?...
- Không đùa, nếu “câu giờ” tao đốt nhà đấy.
- Tôi không đùa. 75 cân rưỡi vàng có được không?
- Vậy thì mang ra đây.
Anh gọi vống lên lầu:
- Em yêu, cục vàng của anh, ra nói chuyện với nó đi này.

Hã hã...

***
- Lời tỏ tình "kinh khủng" nhất mọi thời đại: “anh yêu em như ...kem yêu tủ lạnh ...như trời xanh yêu mây... như cây yêu đất... như tất yêu giày... như chày yêu cối... như gối yêu chăn... như khăn yêu cổ... như tổ yêu chim... như kim yêu chỉ... như khỉ yêu cây... như mây yêu gió... như chó yêu mèo... như kèo yêu cột... như thằng chột yêu con mù ... như thằng gù yêu con thấp... như thằng hấp yêu con hâm ... như thằng câm yêu con điếc ... như con cá díếc yêu con cá rô... như thằng rồ yêu con dại ... đại khái là anh có... yêu em "

- Vợ là TV. Người yêu là mobile. Ở nhà coi TV. Ra ngòai đem theo mobile. Không tìền bán TV. Có tiền đổi mobile. Lâu lâu xem tivi. Nhưng hầu hết thời gian thì chơi với mobile. TV thì free. Nhưng mobile không trả tiền là dịch vụ sẽ bị cắt ....

***
Tối qua anh nhậu say, về bị ngã các bạn ạ. Thâm hết cả mặt. Về đến nhà mới thấm đau, đếch dám kêu, lẳng lặng lấy Salonpas, cởi áo đứng trước gương để dán vào những chỗ tím. Sáng dậy, vửa mở mắt ra đã thấy vợ cầm chổi lông gà đứng trước giường:
- Hôm qua lại say à?
- Đâu ...em buồn cười nhở, anh có tí việc về muộn, có uống giọt đếch nào đâu.
- Thế hả, thế thằng nào dán salonpas đầy lên gương của bà thế kia.

Óe òe...

***
Giời ạ, mới chim được một em gái xinh. Mỗi tội lại là dân vi tính. Hôm gạ gẫm abc, anh đặt mịa tay lên ngực, khẽ hỏi một cách tò mò:
- Cái gì đây?
- Dàn loa 2.1- Gái khúc khích.
- Cái gì đây?
- Nút chỉnh volume.
- Sao anh vặn max mà không có tiếng?
- Dốt ạ, anh phải cắm phích điện vào ổ đã chứ.
Anh hì hà hì hục... cắm phích... Bỗng nghe ... bốp, chát, hự,.... rầm!!! Anh bay dính vào vách. Lồm cồm bò dậy, anh ngơ ngác:
- Chuyện gì vậy em?
Gái tỉnh bơ:
- Không đọc kỹ hướng dẫn à. Phích 110 mà dám cắm vào ổ 220.

Ôi, cái đệt...

Tạm thế đã. Chuyện anh chế tạo, bơm vá & mông má.
Nhặt trên Nét.

16 thg 9, 2012

Ngày Mồng Một Phủ Tây Hồ



   Chiều  nay đạp xe đến đoạn đường vào Phủ Tây Hồ thì bị tắc, fải xuống dắt bộ vì hôm nay là ngày mồng Một tháng 8 Âm lịch, lại đúng vào chủ nhật nên người đến lễ đông như Tết. Ai cũng biết Phủ thờ Bà chúa Liễu Hạnh - một trong những đại diện đạo Mẫu ở Việt Nam, nhưng đa số người đi lễ, với tính thực dụng, hầu như kg fân biệt đạo Mẫu với đạo Phật. Họ chỉ 1 lòng cầu an, mong mỏi yên bình, làm ăn fát đạt…
   Mình len lỏi trong dòng người đi lễ, rê rê điện thoại dởm chụp vài ảnh. Có lẽ đến một nửa số người đi lễ đi bằng xe con, có xe chở cả nhà. Các dịch vụ ăn theo fát fải biết.
   Đến đường Thanh Niên qua cổng chùa Trấn Quốc cũng lại tắc đường vì người xe đi lễ. Trời bắt đầu tối nên ảnh điện thoại mình tối mò, kg post lên được.
   Cách đây ít năm, người ta có đi lễ đông đến thế đâu nhỉ ! 
Gửi xe con bãi fụ (bãi chính hết chỗ)

Lối rẽ vào Phủ
Xin sớ
Trước cổng Tam Quan
Gái đi lễ Phủ
Xe con đỗ tận đến trước cổng nhà 'Kiên bạc'

15 thg 9, 2012

Nguyễn Quang Lập - Vụn mà không vụn


VĂN NGHỆ
20:50/16/05/2009

   Trung tâm Đông Tây ở Cầu Giấy, Hà Nội vốn khó tìm nhưng hôm rồi đầy người, ngoài nhà văn, có cả nhiều blogger. Ra mắt sách, “bọ” không quên quảng bá trên blog: Đến nhé, đến nhé, hehe!
    Người đến nhiều, bọ” ký sách mỏi tay, nhiều khi diễn giả cứ nói, người mua cứ mang sách lên ký, nhìn mà thèm.
    “Ký ức vụn” được viết trên blog, Nguyễn Quang Lập nói: Mình có biết blog là cái chi, có người giới thiệu, vào xem toàn chuyện yêu đương, nghĩ mình làm blog làm gì? Nhưng bỗng lóe lên: bọn trẻ nó yêu đương tán gẫu, còn mình là nhà văn, mình viết, có người đọc, người bình luận là mừng rồi. Thế là viết, bao nhiêu chuyện văn, chuyện người “găm” lại nay tràn ra… mạng.
   15 năm không ra sách, đúng là blog cũng có tác dụng kích thích sáng tạo.
   Trên 40 bài được chia ra mấy mảng, xem ra cũng bài bản: Những người bạn khó quên, Buồn vui một thuở, Người từng gặp, Bạn văn… cứ mỗi bài chỉ vài trang, riêng phần “bạn văn” nhìn đề mục cũng thấy hot: Trần Dần, Phùng Quán, Hải Bằng, Nguyễn Khải, Xuân Sách, Trần Vàng Sao, Hữu Thỉnh, Trần Đăng Khoa, Nguyễn Trọng Tạo, Tuyết Nga, Quốc Trọng, Phạm Ngọc Tiến…, toàn những chuyện rất người. Viết về người khác nhưng Nguyễn Quang Lập không quên tự trào.
    Không chỉ người có tên, Lập còn viết về những người tưởng như vô danh, những “anh cu”, những “thằng, con” thời xửa xưa nhưng đọc lên thì sống động như được nhìn thấy ngay trước mắt.
    Một anh chàng đánh dậm thời bom đạn, một bà bán nước trà trước cửa Viện Văn, một bà chị là diễn viên, thậm chí chuyện một con chó Giôn… lại còn chuyện ấu trĩ một thời cách đây đến cả gần 20 năm, các văn nghệ sĩ rỉ tai nhau… uống nước tiểu để tăng cường sức khỏe (niệu liệu pháp). Đọc xong chuyện thì cười, cười xong ngậm ngùi.
   Bên ngoài bàn trà, Phạm Ngọc Tiến than, nhưng là khen khéo bạn mình: Thằng này có số nổi tiếng, cứ viết gì cũng có người đọc, mình viết bao nhiêu truyện, rồi kịch bản vẫn không nổi bằng nó.
   Tiến được Lập viết đến hai bài in trong sách. Đùa xong, anh lại rưng rưng: Hồi mẹ nó (Lập) mất, nó đạp xe vòng quanh Hà Nội, không có một đồng. Rồi vào nhà tôi, tôi dốc hết tiền ra, hỏi còn cần nữa không tao đi vay thêm. Nó nói, đủ rồi, đủ rồi. Sau này, nó nói, tao nợ mày cả đời…
   Ngoài đời, Nguyễn Quang Lập sống tận tình với tất cả. Năm xưa, cú tai nạn tưởng chết khiến anh thay đổi rất nhiều. Trầm hơn, ngầm hơn, thâm hậu hơn. Anh viết rất nhiều, viết các thể loại, viết để sống theo đúng nghĩa đen và nghĩa bóng.
   Hỏi: Làm blogger thì cái văn nó thế nào? Anh nói: bờ lốc bờ liếc thì cũng chỉ là để mình viết. Mình chỉ là nhà văn thôi.

Lê Anh Hoài

14 thg 9, 2012

"Bạn văn" của Ng. Quang Lập


Nhân việc bác Quốc tặng tập “Bạn văn” của Ng Quang Lập (NQL), đọc mà thích quá. Xin được chia sẻ cùng mọi người. Ai kg quan tâm xin miễn vào hộ nhóe!


Nhà văn NQL: Tôi vẽ bạn văn theo góc tiêng của tôi
Pháp luật TPHCM

"Bạn văn" của nhà văn Nguyễn Quang Lập là cuốn sách được nhiều người tìm đọc trong thời gian gần đây. Với lối viết hí họa, hài hước, trào lộng, mặc dù hấp dẫn song cuốn sách của Nguyễn Quang Lập chưa hẳn đã "thuận mắt" với những bạn đọc vốn thích đọc văn chương một cách... nghiêm trang...
Nhà văn Nguyễn Quang Lập
Trong cuốn sách, bạn đọc được gặp gỡ nhiều nhân vật nổi tiếng trong giới văn nghệ - những người lắm tài mà cũng nhiều tật, ở những tình huống tréo ngoe lắm khi cười chảy nước mắt. Với lợi thế có mối quan hệ rộng rãi và khả năng quan sát, ghi chép sắc bén của mình, qua "Bạn văn", Nguyễn Quang Lập đã giới thiệu với độc giả một không gian văn nghệ sôi động suốt mấy chục năm qua. Hài hước mà vẫn gây xúc động.

- Thưa nhà văn Nguyễn Quang Lập, khi viết chân dung các nhân vật văn nghệ trên trang mạng cá nhân của mình, anh đã nhận được nhiều phản hồi của bạn đọc. Nhưng dường như chưa thỏa mãn hay sao mà "bọ Lập" vẫn quyết chí in lại thành sách nữa vậy?

+ Phải nói là in sách có cái thú riêng của nó. Nhiều bạn đọc không biết hoặc không có điều kiện vào mạng, tôi in sách để phục vụ đối tượng này. Khi sách in ra, nhà thơ Văn Công Hùng có nói với tôi đại ý rằng, ngay cả những người đã đọc "Bạn văn" trên mạng rồi, giờ cầm sách đọc vẫn thấy thú vị. Hơn nữa in sách lại có tiền, tại sao không in nhỉ?

- Bạn văn gây xôn xao dư luận từ thế giới ảo (mạng internet) đến thế giới thật, vì cái chất hài hài, trào lộng, vì giọng văn pha chế phương ngữ rất giỏi của anh…Nhưng phải nói thật rằng, ở một số chân dung, anh đã "góp phần" làm đổ thần tượng của rất nhiều độc giả. Anh có ý kiến gì về điều này không?

+ Như đã nói nhiều lần, chân dung "Bạn văn" của tôi được viết theo lối hí họa. Tôi "vẽ" các bạn văn theo góc riêng của tôi, bằng cái nhìn hài hước và thân thiện, thậm chí bỗ bã. Những ai không quen đọc lối viết chân dung này có thể sẽ "sốc", thậm chí là thất vọng. Nhưng nếu họ đọc kĩ họ sẽ hiểu tôi viết chân dung chứ không làm tụng ca.

- Tôi đọc bạn văn và trộm nghĩ, viết chân dung kiểu "bọ Lập" rất dễ bị bạn văn phản ứng, vì không ít chuyện xem chừng tế nhị ít khi được người làm văn chương nghệ thuật nhắc tới thì anh cứ "lôi ra" thẳng thừng không né tránh. Trên thực tế thì anh đã vấp phải sự phản ứng nào từ các nhân vật mà mình viết chưa?

Bìa cuốn "Bạn văn"
của Nguyễn Quang Lập
+ Chuyện này thì có đấy. Có hai trường hợp. Một là liên quan đến nhà văn Xuân Đức. Anh ấy đòi kiện tôi khi đọc bài tôi viết. Thực ra tôi đâu có viết về anh ấy. Đó là chân dung phiếm chỉ mà. Nhưng thú thật là tôi có mượn một vài chi tiết về anh ấy làm cho anh ấy nổi giận. Tôi đã xin lỗi Xuân Đức rồi. Người thứ hai là nhà văn Tô Nhuận Vĩ. Anh ấy cũng giận tôi khi tôi viết về vài chuyện thời trẻ của anh. Tôi cũng đã xin lỗi anh Vĩ rồi. Sau hai chuyện đó tôi có rút kinh nghiệm nhiều, vì thế những chân dung tôi "vẽ" sau đó không còn bị ai phản ứng nữa.
 
- Xưa nay người ta quen nghĩ viết chân dung phải đẹp, phải trịnh trọng, đàng hoàng. Còn quan niệm của anh, một chân dung hay phải được viết như thế nào?

+ Thật và thật và thật - đó là quan niệm của tôi khi viết chân dung một ai đó. Tất nhiên không phải cái thật của sự bêu xấu, mà là cái thật của con người, về con người… Tôi rất ghét mọi sự thánh hóa.

- Có khi nào vì "ỷ lại" mối thân tình giữa mình và một người bạn nào đó mà anh cho phép mình viết "hơi quá" về người ta một chút cho hấp dẫn độc giả hay không, ví dụ anh viết về cái sự "lười tắm" của nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo chẳng hạn?

+ Cái này tôi thừa nhận là có. Khi viết về những người bạn thân thiết, tôi đùa vui mạnh bạo hơn, vì tôi biết, họ sẽ không bao giờ giận tôi. Họ hiểu tôi viết để làm gì. Sự đùa vui đưa đến hiệu quả nào họ cũng đều hiểu cả. Thành thử tôi rất yên tâm.

- Đọc bạn văn, ngoài chuyện văn chương ra còn thấy anh là một người có rất nhiều bạn bè và được nhiều bạn bè trong giới văn nghệ quý mến. Hỏi một câu hơi "nghiêm trọng" là theo anh, tình bạn trong văn chương có ý nghĩa như thế nào đối với người cầm bút?

+ Câu này thì đúng là quan trọng đấy. Tình bạn trong văn chương không những quan trọng mà còn rất quan trọng. Nhà văn khó có thể thành công nếu không có bạn. Có lẽ không lĩnh vực nào mà tình bạn ảnh hưởng lớn đến sự nghiệp mỗi cá nhân như nghề văn. Tôi nghĩ phải viết một cuốn sách về vấn đề này, vấn đề tâm lý sáng tác và tâm lý tiếp nhận, chứ nói một đôi câu rất khó.

- Không ít người vẫn nhìn thế giới văn chương như một nơi mơ mộng, toàn cái đẹp, còn ở "Bạn văn", anh mang tới cho họ một không gian khác, có cái Đẹp, nhưng cái xấu, cái suy đồi, cái "ngụy" văn chương nghệ thuật cũng không hiếm. Dường như anh muốn bạn đọc hiểu rằng cái thế giới văn chương nghệ thuật có khi còn phức tạp hơn cả thế giới thường ngày mà người ta vẫn gặp, vấn sống?

+ Vâng, điều này thì chính xác. Nhưng thực ra tôi không nói thì nhiều người cũng đã hiểu như vậy rồi. Những trang viết của tôi chỉ góp phần minh họa thêm cái sự hiểu của họ thôi.

-So với những trang viết in trên giấy thì những trang viết trên mạng có cho anh một niềm phấn khích nào khác không, khi anh có thể ngay lập tức nhìn thấy ý kiến phản hồi của bạn đọc? Nói khác đi thì anh thích cuộc sống văn chương trên mạng hay cuộc sống văn chương…trên giấy?

+ Đến bây giờ thì tôi đã hiểu giá trị của văn hóa mạng, nó thật tuyệt. Có lẽ tôi lớn khôn nhanh chóng cũng là nhờ văn hóa mạng. Còn văn chương trên giấy hay văn chương trên mạng thì cũng như nhau cả thôi, không có cái nào kém hơn cái nào, không có cái nào quan trọng hơn cái nào. Đơn giản vì đó là Văn. Tất nhiên ở đây ta nói về thứ văn chương đích thực, không phải thứ "ba-lăng-nhăng" ngụy văn chương. Bây giờ mà chúng ta còn phân biệt văn mạng, văn giấy thì thú thật hơi buồn cười. Chỉ những người chưa hiểu hoặc chưa gia nhập văn hóa mạng mới không coi trọng văn mạng thôi. Ngày nay 90% văn giấy đều từ văn mạng mà ra, đó là một sự thật.
   
     Nhà văn Bảo Ninh: Nguyễn Quang Lập viết dường như rất dễ, nhưng sự dễ ấy trái ngược hoàn toàn với dễ dãi. Đố anh dễ dãi nào viết dễ được như thế. Còn những người viết khó khăn và ì ạch như tôi thì lại thường hay "làm văn" nên chỉ ước ao chứ không bao giờ đạt nổi khả năng "khẩu văn" của Nguyễn Quang Lập. Viết được như thế thật sướng, nhưng muốn sướng được như vậy phải đổi cả một đời trần ai, nào ai dám đổi?
     Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo: Bạn văn của Nguyễn Quang Lập là cuốn sách sinh động, hấp dẫn. Lập là người thông minh và hiểu được sở thích của số đông bạn đọc hiện nay là ưa chuộng sự hài hước, hóm hỉnh, nên Lập có rất nhiều bạn đọc cả trên mạng và ngoài cuộc đời. Lối viết chân dung hí họa của Lập là một lối viết riêng, ở đó bên cạnh cái hài hước còn là nhiều phát hiện thú vị về các nhân vật trong giới văn nghệ, kể cả về cá nhân tôi. Cách viết của Lập cũng đã từng gặp phải một vài phản ứng của bạn bè văn chương và thậm chí là Lập đã có lần phải xin lỗi nhân vật của mình. Thực ra Lập viết về tôi cũng có cái quá lên, nhưng tôi thì hiểu cái sự đùa của Lập, tôi bảo em viết thế nào thì cứ thế mà đăng, anh chả có gì phiền lòng. Trong bài viết mới đây Lập còn bảo tôi sắp lấy vợ thứ 4, nhưng thực tế tôi còn chưa có vợ thứ 3 (cười). Nhưng mà phải như thế thì mới là Nguyễn Quang Lập.
    Hỏi, trên trang viết Lập có phải là người tôn trọng sự thật tuyệt đối không thì tôi xin trả lời thế này: Chúng ta đừng hiểu cái sự thật văn chương là cái sự thật ngoài đời theo cách thông thường, đừng bao giờ cho phép mình hiểu như vậy. Văn chương hoàn toàn có thể viết quá sự thật ngoài đời để đạt tới một sự thật về con người, đó mới là điều quan trọng. Giống như quả lắc vậy, nó phải lắc quá đi thì mới trở về trạng thái cân bằng ban đầu được. Đọc chân dung bạn văn của Lập, theo tôi bạn đọc không nên "cả tin" quá mà dễ thất vọng về một ai đó. Cần phải hiểu những gì Lập viết trong không gian, từ trường của văn học, chứ không phải sự thật đời thường. Nghĩa là phải biết đi qua cái thật của bề ngoài để đến được cái thật bề trong của từng nhân vật. Đọc được như vậy thì sẽ thấy, Lập viết hay.

Theo Vũ Quỳnh Trang (VNCA)

Bí mật 30 năm


Thiết nghĩ post bài này lên đây là để ôn lại 1 thời ấu trĩ.
Bí mật 30 năm
Viết bởi: Nguyễn Quang Lập | 24.09.2009
Nhà thơ Phùng Quán
Nhà thơ Phùng Quán
Tặng anh Tống Văn Công
    Phùng Quán làm bài thơ Lời mẹ dặn khi mình mới một tuổi (1957), mặc dù bị cấm đoán lung tung nhưng đến năm 7 tuổi mình đã biết, còn được đọc cả bài thơ, đơn giản vì ba mình rất thích bài này. Cạnh nhà mình có bác Thông công an, hình như hồi đó bác làm trưởng hay phó ty công an tỉnh Quảng Bình, cũng rất thích bài này.
   Khi nào hai cụ ngồi với nhau cũng đều nhắc đến Phùng Quán, Trần Dần. Có người thì hai cụ nói tiếng Pháp, vắng người thì các cụ cứ nói oang oang không kiêng dè gì, mặc kệ mình đứng ôm cột nhà hóng chuyện. Ba mình nói anh đem bài này giáo dục chiến sĩ công an là tốt lắm, bác Thông gật gù, nói đúng đúng. Bác Thông nói anh đem bài này vào sách giáo khoa dạy con nít cũng rất tốt, ba mình gật gù, nói đúng đúng.
    Ba mình nhìn bác Thông cười cười, nói nếu trên bảo bắt Phùng Quán, anh có bắt không. Bác Thông cười cái hậc, nói tôi chấp hành nhưng trước khi chấp hành tôi sẽ phản đối. Rồi bác thở dài, nói tôi chỉ làm được có thế thôi, khó lắm khó lắm.
     Đó là vài câu tiếng Việt mình nghe được, nhớ đến giờ. Còn thì hai cụ toàn nói tiếng Pháp, mình chẳng hiểu gì, chỉ  lâu lâu lại nghe Phùng Quán Phùng Quản. Cái tính tò mò bẩm sinh, mình lục cho được bài thơ Lời mẹ dặn.
     Còn bé chẳng thấy hay gì, chỉ thấy đúng.Yêu ai cứ bảo là yêu/ Ghét ai cứ bảo là ghét/ Dù ai ngon ngọt nuông chiều/ Cũng không nói yêu thành ghét/  Dù ai cầm dao doạ giết/  Cũng không nói ghét thành yêu, giống y chang ba mạ, cô thầy vẫn dạy, có gì đâu nhỉ ?
    Sau này chơi thân với Phùng Quán, mình có kể cho anh nghe chuyện ấy, anh xuýt xoa tấm tắc khen bác Thông, nói công an mà như thế thì quá tuyệt vời. Khi đó anh mới kể bí mật mà anh đeo đuổi chẵn ba chục năm vì bài thơ này.
    Nghĩ cũng hay hay, bài thơ như một chân lý hiển nhiên ấy lại làm cho thời đó xôn xao, đi đâu cũng thì thào thì thầm, như vừa phát hiện gì ghê gớm lắm. Tất nhiên bài thơ bị qui chụp là biểu tượng hai mặt, là mưu đồ đen tối của lực lượng thù địch. Từ Bích Hoàng tương một bài “Vạch thêm những hoạt động đen tối của một số kẻ cầm đầu trong nhóm Nhân văn-Giai phẩm”  in trên Văn nghệ Quân dội số 5 ( 5/1958). Nghe thất kinh.
    Anh Quán nói thực ra mình viết chống tham ô lãng phí với Lờì mẹ dặn như những góp ý với Đảng thôi, vì mình nghĩ mình là chiến sĩ, mình không dám nói thật cho Đảng biết thì ai nói. Cho nên mới có câu này Trung ương Đảng ơi! /Lũ chuột mặt người chưa hết/ Đảng cần lập những đội quân trừ diệt/ Có tôi/ Đi trong hàng ngũ tiên phong! là mình nghĩ thế thật, khi đó Đảng hô một phát là mình vác súng xung phòng ngay, mưu đồ gì đâu.
    Mình cười khì khì, nói mấy ông cũng dở hơi, nếu có mưu đồ ai lại dại đi nói với Đảng, làm thế hoá ra lộ thiên cơ à. Anh Quán cười cái hậc, nói thủa bé đến giờ mình cũng chẳng thấy lực lượng thù địch nào đi góp ý cho Đảng cả. Nó không chửi Đảng thì thôi, ngu gì lại đi góp ý.
    Chuyện tưởng đến đó là xong, ai dè một tối ở chòi Ngắm sóng, anh rút tiền đưa mình, nói Lập đi mua cho anh chai rượu, anh kể chuyện này hay lắm. Chỉ chai rượu trắng với nhúm lạc rang, hai anh em ngồi gần sáng đêm. Anh Quán kể hồi đó phê phán chỉ trích đánh đấm anh rất nhiều, nhưng đánh đau nhất, độc nhất là bài thơ  Lời mẹ dặn- thật hay không dài 112 câu của Trúc Chi, hình như in báo Nhân dân.
    Mình hỏi Trúc Chi là ai, anh nói từ từ cái đã, rồi anh ngâm nga cả bài thơ, không quên một câu nào, chứng tỏ anh đã đọc đi đọc lại bài thơ này vài trăm lần là ít trong suốt mấy chục năm qua. Hồi này hễ ai bị phê ở báo Nhân dân, dù chỉ nhắc khẽ bóng gió một câu thôi, cũng cầm chắc là đời tàn. Thế mà cả bài thơ 112 câu dài dằng dặc, chụp mũ anh không thiếu một thứ gì.
    Nào là Nó ghét chỗ thầy hiền bạn tốt/Nó yêu nơi gái điếm cao bồi/ Ghét những người đáng yêu của thiên hạ/Yêu những người đáng ghét của muôn người,/ Quen học thói gà đồng mèo mả/ Hoá ra thân chó mái chim mồi…
    Nào là Theo lẽ thường: thì sét đánh không ngã/ Chắc trên đầu có cột thu lôi/ Nếm đường mật lưỡi không biết ngọt/ Chắc ăn tham vị giác hỏng rồi/ Nghề bút giấy đã làm không trọn/ Dùng dao khắc đá cũng  xoàng thôi !…
    Mình nói qui kết tàn bạo thế, anh không bị tù tội là may, cậu Tố Hữu có ba đầu sáu tay cũng đừng hòng giúp cháu. Anh Quán gật gù, nói đúng rồi, cho nên mình có trách Tố Hữu đâu. Đột nhiên anh nhìn thẳng vào mặt mình, nói hơn ba chục năm qua mình chỉ làm một việc là tìm cho ra Trúc Chi là ai.
    Anh Quán  trầm ngâm hồi lâu, uống hết chén rượu, nói sở dĩ mình quyết tìm cho ra Trúc Chi là ai, vì đời mình tan nát cũng chính ông này chứ không ai khác.Tìm để biết ông ta là ai, rứa thôi, ngoài ra không có ý chi hết. Khi đó nhiều người cho mình dại, tìm chẳng để làm gì, nhỡ người ta biết mình đang đi tìm, có khi mình lại thiệt thân.
    Hồi đó cả nước chỉ có mỗi anh Trúc Chi làm thơ ở Hải Phòng, anh là cán bộ tập kêt, thỉnh thoảng lên Hà Nội vẫn gặp Phùng Quán chuyện trò rất vui vẻ. Phùng Quán đã đi tàu về Hải Phòng hỏi cho ra nhẽ. Trúc Chi cười buồn, nói anh nghĩ tôi là hạng người nào lại đi làm mấy trò khốn nạn đó.
    Phùng Quán bế tắc, đôi khi nghi người nọ người kia nhưng tóm lại là không phải. Năm 1989, tình cờ có người bạn gửi cho anh tập thơ Một đôi vần của Trúc Chi do nxb Văn hoá dân tộc Việt Bắc ấn hành, trong đó in nguyên bài thơ Lời mẹ dặn- thật hay không,  lời nói đầu cho biết Trúc Chi đó là Hoàng Văn Hoan.
    Bí mật ba mươi năm đã giải toả, Hoàng Văn Hoan khi đó đã cư trú chinh trị tại Trung quốc. Anh Quán cười cái hậc, nói mình muốn gặp Hoàng Văn Hoan quá nhưng không sao gặp được. Mình nói anh gặp làm cái gì, anh nói để nói một câu, một câu thôi. Mình hỏi câu gì. Anh Quán uống một hơi cán chén, vuốt râu ngâm nga, nói anh Hoan ơi… ai quen học thói gà đồng mèo mả/ ai hoá ra thân chó mái chim mồi…