Lời dẫn của BQT: Ngày nay không một quốc gia nào đứng độc lập được nếu muốn fát
triển. Nhất là những nước nhỏ muốn ổn định và fát triển fải tìm được đồng minh
cho mình. Thế giới đã đổi thay, buộc ta cũng cần xem xét lại. Thay đổi là điều
ai cũng đang nhắc tới, nhưng điều quan trọng là thay đổi theo hướng nào, và ai
sẽ là người đi tiên phong cho sự thay đổi. Việt Nam không có Thiên hoàng Minh
Trị, không có Lý Quang Diệu và thậm chí là cũng chẳng có gương mặt nào cấp tiến
so được với dù chỉ Thansue của Mianma. Đây chính là điều khiến nhiều người
không thực sự cho rằng những gì diễn ra hôm nay sẽ tạo được một sự cách mạng gì
trong ngày mai. Nhưng việc tìm cho được đồng minh tin cậy là điều cấp bách. Nhân
ngày Độc Lập thiết tưởng nghĩ suy bài viết sau:
EM
CHỌN LỐI NÀY ???!!!
(Em chọn lối này, lời
1 ca khúc do Thanh Hoa thể hiện nổi tiếng 1 thời)
Được đăng bởi [Z]_[O]
vào lúc 21:11
….. Lịch sử xô đẩy Việt Nam
đến việc chọn lựa TQ và Nga làm đồng minh trong diễn biến của hai cuộc chiến
tranh nối tiếp ở Việt Nam.
Khi đó Việt Nam không có lựa chọn khác vì không thể để dân tộc đi tới một mình trong cuộc chiến
quá chênh lệch về cán cân lực lượng. Việt Nam khởi đầu là đúng
khi tìm được độc lập cho dân tộc mình, nhưng sau đó mắc sai lầm dẫn đến nền độc lập ấy đi kèm với
một Việt Nam chậm tiến và nghèo đói kéo dài nhiều năm sau chiến tranh, trong
lúc đại bộ phận những nước xung quanh đều mạnh mẽ vươn lên.
Vinh quang trong chiến tranh của
Việt Nam, sau 30 năm, trở thành điều nực cười khi so với sự phồn thịnh của các
quốc gia châu Á như Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, Thái Lan, Indonexia,
Malaysia ... và đặc biệt là với một thế lực mạnh mẽ trỗi dậy và đang đe doạ cả
Á Châu là Trung Quốc.
Câu chuyện về cuộc chiến và lựa
chọn của Việt Nam đã thuộc về thế kỷ trước, thế
kỷ 20, một thế kỷ ghi dấu ấn với riêng Việt Nam bởi hai cuộc chiến tranh thảm
khốc nối tiếp kéo dài 30 năm, và gần hai thập kỷ nghèo đói kế tiếp sau đó của
đất nước. Trong tình thế buộc phải lựa chọn, Việt Nam
đã tìm ra cho mình một sự lựa chọn cho đến giờ vẫn còn gây nhiều tranh cãi về
tính đúng sai.
Năm 2009, trước một Trung Quốc
đang lên và ngày càng trở thành một hiểm hoạ, người Việt Nam lại một lần nữa phải trả lời
câu hỏi "Which side are you on?" - "Bạn đứng về bên nào?".
Thế giới ngày nay nhìn nhận trực
tiếp có lẽ chỉ còn hai siêu cường trên thực tế. Một nước Mỹ hùng mạnh đứng đầu
thế giới gần 100 năm qua, quyền lực dù lung lay nhiều trong những năm gần đây
nhưng vẫn là cường quốc số 1 hành tinh. Bên cạnh đó, là một Trung Hoa khổng lồ
với dân số 1,4 tỷ người, chiếm hơn 1/6 dân số địa cầu, và đang vươn lên ngày
một mạnh mẽ về kinh tế cũng như quân sự. Nhiều dự báo cho rằng thế kỷ 21 sẽ là
thế kỷ của Trung Quốc, và quốc gia này sẽ thế chân Mỹ thành nền kinh tế đứng
đầu thế giới sau 30 hoặc 40 năm nữa. Tất nhiên mọi dự đoán về tương lai đều có
thể là sai lầm, nhưng một thực tế không thể phủ nhận là Trung Quốc và Mỹ đã trở
thành hai thế lực lớn nhất hành tinh hiện nay, và cuốn các nước khác vào một
ván bài có tính lựa chọn khi phải tìm lấy cho mình một bên để đứng.
Câu cửa miệng sáo rỗng dạng
"chúng ta muốn làm bạn với tất cả các quốc gia trên thế giới" chỉ là
lời sáo ngữ không thể lừa ai và cũng chẳng thể dối chính mình. Làm bạn với tất
cả, cũng đồng nghĩa với việc chẳng có người bạn nào. Và đó chính là thực trạng
của Việt Nam hiện nay: Một quốc gia nhỏ yếu, chậm phát triển, và cô đơn giữa
thế giới này khi không có lấy một đồng minh đúng nghĩa (Có thể nhắc đến người
Lào chăng? nhưng Lào rồi cũng sẽ rất nhanh không đứng cạnh Việt Nam, khi Trung
Quốc đang không ngừng khuyếch trương ảnh hưởng ở đó)
Trong cuộc chơi với người Trung
Quốc suốt nhiều năm qua, với Việt Nam, luôn là một cuộc chơi nhẫn
nhịn. Trung Quốc giúp Việt Nam
nguồn súng đạn trong chiến tranh với một động cơ cũng chẳng trong sáng gì.
Giống như ở Triều Tiên, Trung Quốc không muốn ranh giới của thế giới phương Tây
tiến sát đến biên giới của họ. Ở Triều Tiên, Trung Quốc trực tiếp tham chiến,
chấp nhận trả giá để dựng lên một chính phủ Bắc Triều Tiên trung thành làm phên
dậu tại Đông Á cho Trung Quốc trong suốt 70 năm qua. Một bức tranh tương phản
tại Triều Tiên, miền Bắc là đệ tử của Trung Quốc, được cai trị bởi một chính
thể độc tài toàn trị có tính phản động hàng đầu trên thế giới, một nền chính
trị có tính cha truyền con nối, dân chúng chết đói hàng năm vì chưa bao giờ đủ
ăn, còn chính thể để tồn tại thì tìm mọi cách đầu tư vào quân đội để duy trì
sức cai trị cho chế độ. Nam Triều Tiên, ngược lại, hoà nhập vào thế giới văn
minh và hiện là một quốc gia phát triển hàng đầu thế giới, nằm trong nhóm nước
phát triển OECD.
Với một động cơ tương tự khi
Trung Quốc muốn giúp Việt Nam
trong cuộc chiến chống người Pháp và người Mỹ, nhằm có một khoảng đệm an toàn
cho biên giới quốc gia của họ với thế giới phương Tây. Trung Quốc cũng muốn
Việt Nam phân đôi giống như Nam - Bắc Triều
Tiên, để duy trì sát tại biên giới mình một quốc gia nhỏ yếu và vâng lời. Ý
thức độc lập thống nhất của người Việt Nam mạnh mẽ hơn ý chí áp đặt của
Trung Quốc. Và kết quả là người Việt Nam
đã thống nhất đất nước của mình bất chấp những cuộc mặc cả đi đêm của Trung
Quốc sau lưng Việt Nam.
Năm 1974, ngay khi cuộc chiến Việt Nam sắp chấm dứt, Trung Quốc tận dụng thời
cơ hai miền Nam Bắc Việt Nam đánh nhau, chớp nhoáng chiếm trọn quần đảo Hoàng
Sa của Việt Nam. Khi thấy không thể chặn lại được sự thống nhất đất nước của
người Việt, Trung Quốc dựng lên chế độ Khơme đỏ tại Campuchia, tìm mọi cách xúi
lực lượng này làm tiên phong gây chiến với Việt Nam. Việt Nam phản đòn, chế độ
Pôn Pốt nhanh chóng bị đập tan, Trung Quốc công nhiên lộ mặt gây chiến trực
tiếp với Việt Nam. Cuộc chiến tranh tàn bạo năm 1979 nổ ra, trước những thiệt
hại lớn, Đặng Tiểu Bình buộc phải rút quân về, dù sau đó xung đột biên giới vẫn
dai dẳng nổ ra giữa hai bên. Trong cùng thời kỳ, Đặng thành công đổi mới đưa
Trung Quốc đi lên, trong lúc lãnh đạo Việt Nam sai lầm trong con đường phát
triển khiến đất nước ngày càng kiệt quệ. Năm 1988, khi Việt Nam đang ở điểm đáy
của sự tụt hậu và đói nghèo, tận dụng thời cơ Liên Xô là đồng minh duy nhất của
Việt Nam lúc đó đang suy yếu đến tận rìa sụp đổ, Đặng xua quân gây cuộc chiến
chớp nhoáng tại Trường Sa và chiếm 8 đảo tại quần đảo này của người Việt Nam.
Nhiều chục năm quan hệ với Trung
Quốc, là nhiều chục năm cay đắng đối với Việt Nam. Cộng thêm với một lịch sử hàng
nghìn năm liên tiếp phải đánh nhau với những đạo quân xâm lược tràn từ Trung
Quốc sang. Một lịch sử luôn gắn với những bài học trả bằng xương máu.
Năm 2009, thế giới khủng hoảng,
Trung Quốc mạnh mẽ vươn lên với tư cách của một siêu cường. Đối kháng với Trung
Quốc thật là một sai lầm, bởi quốc gia này ngày nay quá mạnh. Có lẽ dễ dàng hơn
nhiều nếu chọn cách đi bên cạnh Trung Hoa, bởi đối đầu với một quốc gia khổng
lồ kề sát bên mình là một lựa chọn rất thiếu khôn ngoan.
Vấn đề là, Trung Quốc không muốn
ai đi cạnh bên mình một cách đích thực. Trong lúc rêu rao những lời tuyên ngôn
về tôn trọng hoà bình, thì Trung Quốc đầu tư càng lúc càng mạnh cho việc hiện
đại hoá quân sự và quốc phòng, đến mức ngày nay đã thành một thế lực đủ sức đe
doạ Á Châu. Trong lúc tuyên truyền về tình thân thiện với các quốc gia láng
giềng, thì Trung Quốc đồng thời cho vẽ bản đồ chiếm gần trọn lãnh hải của 6
quốc gia trong khu vực Đông Nam Á. Trong lúc nói những lời đường mật về hợp tác
cùng phát triển, thì Trung Quốc tìm mọi cách thọc tay vào các nguồn tài nguyên
khoáng sản của các nước xung quanh, đổ công nghệ khai thác lạc hậu vào những
đất nước này, di dân xâm thực văn hoá, bòn rút tài nguyên và trút vào đó hiểm
hoạ môi trường. Trong lúc thế giới đang nóng lên, Trung Quốc cho xây đập chặn
hầu hết các con sông dẫn nước qua các quốc gia dưới hạ lưu, bất chấp điều đó
gây các thảm hoạ về sinh thái và cuộc sống cho dân cư những quốc gia đó. Và
Việt Nam,
cay đắng thay lại là nước chịu ảnh hưởng nặng nhất từ những chính sách tàn bạo
đó của người Tàu.
Năm 2009, Trung Quốc tiến hành
phong toả gần trọn vùng biển Đông của Việt Nam, kiểm soát nó trên thực tế, quét
sạch tàu cá của Việt Nam ra khỏi những vùng mà Trung Quốc đơn phương tuyên bố
chủ quyền bất chấp luật pháp quốc tế, đồng thời triển khai những chương trình
khai thác thăm dò tài nguyên đầy tham lam. Năm 2009, Trung Quốc cho khánh thành
một loạt đập ngăn nước tại các nhánh chính của dòng sông Mê Kông chảy trên lãnh
thổ Trung Quốc, đẩy các quốc gia dưới hạ lưu như Lào, Thái Lan, Campuchia trước
hậu quả nghiêm trọng của việc suy thoái về nông nghiệp và thuỷ sản cũng như môi
trường. Hậu quả nghiêm trọng nhất đến với Việt Nam, khi toàn bộ vựa lúa gạo đồng
bằng sông Cửu Long đứng trước mối đe doạ trực tiếp và nghiêm trọng nhất do việc
thiếu hụt nước và phù sa từ sông Mê Kong. Nhiều chuyên gia đánh giá, Việt Nam
sẽ phải tốn nhiều chục tỷ USD để làm các công trình thuỷ lợi, xây các hồ chứa
nước và hệ thống đê ngăn xâm thực nước mặn từ biển để khắc phục những hành vi
này của Trung Quốc. Cũng năm 2009, Trung Quốc tìm mọi cách gây sức ép để khai
thác các nguồn tài nguyên thô của Việt Nam, đặc biệt là Bauxite tại Tây Nguyên,
một kế hoạch đang chịu sự phản đối gay gắt của hầu hết trí thức Việt Nam trước
những hậu quả về mặt môi trường, hiệu quả kinh tế không đi đôi với số vốn đầu
tư, và đặc biệt là hiểm hoạ về mặt an ninh khi Trung Quốc hiện diện tại mảnh
đất chiến lược này.
Việt Nam muốn đi cạnh Trung Quốc hơn ai
hết, nếu quốc gia ấy thật sự để cho những nước khác có thể tồn tại cạnh mình và
vẫn có cơ hội phát triển đi lên. Nhưng tiếc thay, Trung Quốc đã và đang chỉ
chấp nhận cho những nước nhỏ yếu tồn tại cạnh mình với điều kiện thôn tính được
lãnh thổ và tài nguyên của những nước đó. Nói cách khác, Trung Quốc để các dân
tộc khác tồn tại cạnh mình với điều kiện tước đoạt được tương lai phát triển
của những dân tộc ấy, kìm họ trong vòng lạc hậu và đói nghèo để luôn dễ bảo.
Trung Quốc, cả về lịch sử cũng
như hiện tại, không cho cơ hội để Việt Nam có thể chọn họ là một đồng minh
có thể chấp nhận được.
Người Việt Nam một lần nữa phải chọn cho mình
câu trả lời. Để sinh tồn, để có tương lai phát triển, để giữ được chủ quyền
lãnh thổ và tránh những hậu quả lâu dài về môi trường cho con cháu mai sau,
Việt Nam phải tìm cho mình một lối đi riêng, một chính quyền và một thể chế đáp
ứng được đòi hỏi có tính sinh tồn về lợi ích dân tộc và chủ quyền, và những
người đồng minh đủ mạnh cho đến khi đất nước phát triển đến một mức đủ để có
thể bảo vệ chính mình.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét