27 thg 7, 2012

Một bài viết rất đáng để đọc và suy ngẫm

Một bài viết về ngày 27/7 gây xôn xao cư dân mạng

“Chiến tranh không đùa với ai cả, cũng không phải cứ hạ súng thì đã là kết thúc thế nên, còn hòa bình được ngày nào, hãy cố mà gìn giữ…”

“Bởi chiến tranh đâu phải trò đùa”

Nhân ngày Thương binh - liệt sỹ 27/7, PV đã nhận được một bài viết rất cảm động của độc giả Lê Thị Hương (25 tuổi, Chí Linh - Hải Dương) chia sẻ câu chuyện về người bố là thương binh hạng 2/4 của mình, bác Lê Anh Tuấn (nhập ngũ lần đầu năm 1974, lần 2 năm 1978, tham gia chiến đấu và bị thương ở chiến trường Campuchia).

Bài viết còn là những suy nghĩ rất thật, rất chân thực về chiến tranh của một người trẻ tuổi, người chưa hề biết thế nào là chiến tranh. Hiện bài viết đang lan truyền rất nhanh trên cộng đồng mạng và gây xúc động cho nhiều người.
 
Bố em, 18 tuổi vào bộ đội. Năm đó là 1974, chiến tranh đã vào hồi cuối, bố là lớp tân binh nên còn huấn luyện chán chê để rồi tuyển lựa "đi B". May mắn thay, bố chưa đến đợt đi B thì chiến tranh kết thúc, 1977 bố giải ngũ trở về, cưới vợ.
Một bài viết về ngày 27/7 gây xôn xao cư dân mạng
Lê Thị Hương, tác giả của bài viết đã gây xúc động mạnh trên cộng đồng mạng trong những ngày qua. (Ảnh do tác giả cung cấp)

Tháng 8/1978, chị cả em ra đời, sau đó chỉ một tháng, chú Tư - em trai ruột của bố em, có lệnh gọi nhập ngũ. Chú vừa nhát vừa hiền, lại vừa cưới vợ nên bố xin đi thay chú. Đất nước đang cần người đã có kinh nghiệm, đơn tình nguyện của bố được chấp thuận ngay. Mẹ em, chị và ông bà tiễn bố lên đường.

Vài tháng sau, bố đi K (chiến trường Campuchia). Chuyến tàu đưa bố đi từ ga Hải Phòng, đơn vị bố có hơn 40 người Hải Phòng, vào đến Quảng Trị còn 14 người. Họ nhảy tàu vì đi B thì sẵn sàng nhưng đi K thì khác.

Thời gian đầu còn có chút tin bố về nhà, càng về sau càng biền biệt. Mấy năm sau có giấy báo tử gửi về, bà nội khụy xuống trước thềm nhà. Suốt tháng trời bà mê man chỉ đòi chống gậy đi tìm con, bà bảo bố em không thể nào chết được.

Mẹ ôm chị gái em từ căn nhà riêng về ở với ông bà vì chị ốm quá, lên sởi mủ xanh mủ vàng đã có lần thiếp đi, chú mang ra góc giường đặt, mẹ khóc ngất, bỗng thấy cánh tay chị vời lên, mẹ lại ôm chị, chăm nuôi bú mớm. Những năm tháng ấy, bố vẫn biền biệt bên kia, không hay biết gì về tình cảnh bi đát của con thơ, mẹ già.

Rồi bố bị thương trong một lần đi họp giao ban buổi tối: đạp trúng mìn, bàn chân dập nát, đồng đội đưa về trạm quân y dã chiến giữa cánh đồng hoang. Sợ tiếp tế đến không kịp, bác sĩ y tá cưa chân cho bố, cưa sống, đồng đội hát quốc ca bao nhiêu vẫn không át nổi tiếng gào thét.

Rồi 2 ngày sau bố mới được chuyển về Sài Gòn bằng trực thăng, lần này nằm viện, cưa thêm một lần nữa vì vết cưa cũ bị nhiễm trùng. Điều dưỡng thêm vài năm nữa 1/3 chân phải của bố đã không còn, một mảnh đạn găm ở đùi và hai tai bị điếc nhẹ.

Bố về nhà với giấy chứng thương 2/4, mất sức 65%. Nhưng còn về được đã là đại phúc cho cả nhà mình, bố kể hồi mới sang được 1 tháng, chính tay bố đã phải gói hài cốt của bạn mình để trực thăng mang về.

Ngày bố về, nét mặt dữ dằn hơn, những cơn đau mê sảng thỉnh thoảng vẫn trở lại, chị em nhất định không nhận bố vì sợ cái nạng và cái chân gỗ bố tháo ra lắp vào mỗi sáng tối. Ngay cả đến đời con trai của chị, cháu ngoại của bố, mỗi lần nhìn cái chân ấy nó đều khóc thét.

Bố mất cả tháng giời chỉ để làm quen và ôm con gái mình vào lòng mà không làm nó sợ. Đúng, em là gái, em chỉ nhìn những thứ xung quanh mình, em nhìn thấy chiến tranh và hậu quả của nó trong suốt 18 năm sống bên bố, những lần sợ hãi đến run rẩy khi bố em mắt vằn tia máu lên nóng giận vì những điều không lớn lao gì, khi bố em những đêm rên rỉ trong vô thức vì mảnh đạn trong người, khi bố em có những lần đi xe máy hơi quẹt xe đã ngã vì không thể dùng chân giả mà chống như người ta được.

Bố em chưa một lần than vãn gì về chiến tranh, kêu ca gì về sự đãi ngộ của nước nhà cho những người thương bệnh binh như bố, bố vẫn bươn trải bán buôn ngược xuôi để nuôi con học hành.

Em nhớ mãi một lần lớp 11, em học kém bị bố đánh, đánh xong bố nói rất nhiều, nhưng có một câu em không thể nào quên được, bố bảo: "Chị em chúng mày đang đi học bằng tiền xương máu của tao đấy con ạ". Đúng, chúng em từ Cấp 1 cho đến hết Đại học đều được miễn học phí vì bố là thương binh.

Bao nhiêu năm em sống trên đời là bấy nhiêu năm em thấy mẹ chăm bẵm bố em từ miếng cơm, phích nước, ấm trà, là thấy mẹ chịu đựng đủ sự nóng nảy của bố do thay đổi tâm tính từ lúc trở về.

Có đôi lần ai đó nói đến chiến tranh, mẹ em chỉ lơ đãng nói một điều: "Kể cả có chiến tranh, thằng HA (em trai em) nhà này cũng không bị gọi đi nhập ngũ đâu, nó con một, bố lại thương binh yếu đuối thế kia".

Các bạn có thể cười rằng mẹ suy nghĩ hạn hẹp và ích kỷ, nhưng nếu các bạn đã từng vùi cả tuổi xuân của mình để chờ chồng, nuôi cha mẹ già con thơ và dành cả cuộc đời để xoa dịu những vết thương chiến tranh, các bạn sẽ dễ cảm thông cho mẹ em biết chừng nào. Chiến tranh không đùa với ai cả, cũng không phải cứ hạ súng thì đã là kết thúc thế nên, còn hòa bình được ngày nào, hãy cố mà gìn giữ.

 Lê Thị Hương

Chả lẽ lại chửi tục


Được đăng bởi Văn Công Hùng vào lúc 09:21:00, ngày 26 tháng bảy năm 2012

CHẢ LẼ LẠI CHỬI TỤC

Là sau khi nghe VTV1 đọc nguyên văn cái thông báo của công an Hưng Yên về vụ tẩn 2 nhà báo.

Nhưng trang web của mình là trang sạch, nên thôi, cương quyết không chửi tục, nín lại đấy, phải giữ thể diện, chứng tỏ là mình có văn hóa. Với lại, cũng không bất ngờ lắm với kết luận này.

Ngửa cổ lên trời khóc 3 tiếng cười 9 tiếng vậy...

Nhưng như thế cũng còn là nhanh hơn vụ Tiên Lãng. Và cũng thắc mắc chút, là chả lẽ họ coi dân như... trẻ con?


Nhân ngày 27/7 nhìn lại Gạc Ma

    Với tinh thần ngày TB-LS 27/7 kg thể kg nghĩ lại trận chiến Trường Sa - Gạc Ma năm xưa.
    Ừ thì có đc lệnh nổ súng lúc đó, hơn 70 chiến sỹ hải quân ta vẫn thua nhưng đỡ tủi hổ hơn khi có lệnh "không được nổ súng"!!!!!!!!!!! (Giờ thì ai cũng phần nào biết đc tại sao có cái lệnh ấy). 
    Sau khi hy sinh, các LS Gạc Ma nói riêng, các TB, LS tham gia cuộc chiến Biên giới 1979 cũng hầu như đi vào quên lãng! Những cán bộ chiến sỹ phục vụ việc giữ gìn biên giới sau cuộc chiến cũng chìm vào bóng tối!
    Vào Gúc loáng cái ra tỷ bản tin, xin post lên đây 1 vài bài:


Trường Sa - Gạc Ma 1988: 24 năm nhìn lại
Theo blog Mẹ Nấm

Cách đây hơn nửa thế kỷ, Thống tướng Douglas MacArthur của Hoa Kỳ đã để lại một câu nói bất hủ: "Old soldiers never die, they just fade away " - Những người lính già không bao giờ chết, họ chỉ mờ nhạt đi.

Nhưng tại Việt Nam, có những người lính trẻ đã chết, cái chết của họ không chỉ mờ nhạt đi mà còn bị chôn vào quên lãng, bị xoá mờ chứng tích. Đó là những người lính Việt Nam đã hy sinh vì Tổ quốc để bảo vệ núi rừng và biển đảo của tổ tiên.

24 năm sau trận Hải chiến Trường Sa – Gạc Ma (14/03/1988) không một dòng thông tin nào nhắc về biến cố này. Điều này hoàn toàn không giống như những sự kiện lịch sử khác luôn được báo chí, truyền hình và hệ thống thông tin cơ sở nhắc đến nhiều lần trước ngày kỷ niệm.

Những người Việt Nam sử dụng Internet hiện tại biết nhiều đến trận hải chiến này phần nhiều qua một đoạn video clip do phía Trung Quốc công bố trên Youtube mô tả cảnh hải quân nước này nã nhiều loạt súng máy phòng không 37 ly cùng pháo 105 ly vào lực lượng hải quân công binh Việt Nam tay không vũ khí đang dầm mình trong nước bám trụ giữ đảo.

Tháng 9 năm ngoái, trong một buổi lễ kỷ niệm cuộc gặp gỡ của các cựu chiến binh đã chiến đấu trên tàu HQ604 trong chiến dịch CQ88 tại Trường Sa (1988) có tên “Vòng tròn bất tử” do Trung tâm Dữ liệu Hoàng Sa tổ chức tại khu du lịch Suối Lương (Đà Nẵng), chín cựu binh sống sót sau trận chiến này mới có dịp gặp lại nhau sau khi bị bắt và được trao trả về Việt Nam 1992. Một trong số chín người này đã mất vì bệnh ung thư.

Tôi không được tham dự cuộc gặp gỡ này với lý do “nhạy cảm”, mặc dù trước đó đã nhận được sự đồng ý của Ban tổ chức chương trình nên đã bỏ lỡ phần chia sẻ của những nhân chứng lịch sử và những khoảnh khắc xúc động của cuộc gặp gỡ này.

“Khi tàu bị tấn công, lính và sĩ quan mình trúng đạn ngã la liệt. Tui chỉ kịp xé áo người này quấn cho người kia để cầm máu”, cựu binh Dương Văn Dũng kể. “Tui nhớ đang băng vết thương cho anh Trừ (Thuyền trưởng Vũ Phi Trừ – HQ604) thì nghe ‘ầm’ rồi tàu chìm.”

“Bọn này ôm phao trôi nổi trên biển gần 12 tiếng đồng hồ mới được bọn nó vớt”, Lê Minh Thoa thuật lại bằng giọng Bình Định, “vậy mà 3 ngày sau là hết bọn tui bị lột da từ đầu đến chân”.

“Cho đến gần đây vợ tui mới tin tui từng chiến đấu ở Trường Sa rồi bị Trung Quốc bỏ tù”, cựu binh Trương Văn Hiền kể, “trước nay nó cứ tưởng tui bị đi tù rồi bịa chuyện để nói với con”. Đứa con gái thứ hai của anh Hiền, năm nay 6 tuổi, thuộc lòng tên các hòn đảo ở Trường Sa, nơi cha mình từng chiến đấu. “Nó cứ đòi coi cái đĩa quay cảnh chiến đấu ở Trường Sa của tui”, anh Hiền nói. ((*))
(Trích từ bài viết “Vòng tròn bất tử” - Trung Bảo)

Tất cả những người cựu binh có mặt trong cuộc gặp gỡ hôm đó đều bật khóc khi được xem lại đoạn phim quay cảnh hàng loạt đồng đội của mình đã ngã xuống dưới làn đạn của lính Hải quân Trung Quốc trên đảo Cô Lin, Gạc Ma…

Những người thân của các chiến sĩ công binh đã nằm xuống trong trận chiến Trường Sa – Gạc Ma 1988 đến giờ vẫn tiếp tục tìm kiếm sự thật về sự hy sinh của chồng, của cha mình.
Chị Mai Thị Hoa, vợ liệt sĩ thiếu úy Trần Văn Phương bật khóc khi xem đoạn phim kể chuyện chồng mình hô to khẩu hiệu “Thà hy sinh chứ không để mất đảo. Hãy để máu chúng ta nhuộm đỏ biển Đông chứ cương quyết không để mất đảo”

24 năm trôi qua, vẫn là sự im lặng thường thấy đối với biến cố lịch sử này. Thật khó tin đó là sự thật khi có quá nhiều chương trình kêu gọi đóng góp để xây dựng Trường Sa.

Tại sao những người cựu binh, lẽ ra phải được chào đón và tôn vinh như những anh hùng bởi họ là những nhân chứng lịch sử có thật và xác đáng nhất cho “sự vô nhân bất tín” của nước láng giềng “hữu hảo” Trung Quốc lại muốn quên đi những ngày tháng này?

Có lẽ, những người cựu binh Trường Sa – Gạc Ma năm xưa cũng không thể ngờ rằng, 24 năm sau, nhiều người Việt Nam khác vẫn đang tiếp tục tìm kiếm thông tin về những gì đã xảy ra, và vẫn tiếp tục nỗ lực âm thầm đấu tranh cho sự thật nhằm giữ đảo cho muôn đời sau.

Có những cái chết bi tráng. Nhưng chắc không có đau đớn nào bằng cái chết của sự thật về những cái chết bi tráng đó. Người ta bằng mọi cách đã xoá đi những vết tích anh hùng của một dân tộc trong khi luôn ra sức ca tụng những anh hùng không có thật. Và có lẽ chỉ có ở Việt Nam mới có chuyện anh hùng bị phân biệt đối xử một cách rạch ròi. Sự xếp loại không tuỳ thuộc vào những người đã nằm xuống vì đại nghĩa, vào xương máu của họ đã đổ ra như thế nào.

Ở Việt Nam, các anh hùng có được ghi nhớ hay không - Điều này tùy thuộc vào kẻ thù đã bắn những viên đạn xâm lăng vào họ.


Ẩn hiện bóng ma sợ hãi

Có thể rất nhiều bà con chưa được đọc mẩu tin dưới đây:
Phát hiện hài cốt liệt sĩ VN ở đảo Gạc Ma (Trường Sa)

Nguồn tin từ Vùng 4 hải quân cho biết trong khi đánh bắt hải sản ở gần đảo Gạc Ma (thuộc quần đảo Trường Sa, tỉnh Khánh Hòa), một số ngư dân VN phát hiện và vớt được hài cốt của bốn liệt sĩ hải quân VN hi sinh trong trận chiến đấu bảo vệ đảo Gạc Ma (14-2-1988) và đã trao cho bộ đội Trường Sa. Quân chủng hải quân VN đã giao mẫu hài cốt cho pháp y quân đội giám định, xác định danh tánh bốn liệt sĩ này (đối chiếu với ADN của thân nhân 64 liệt sĩ VN hi sinh ở Gạc Ma trong trận chiến nói trên). Tàu Trường Sa 21 – Hải quân VN đã đưa bốn bộ hài cốt liệt sĩ nói trên về đất liền, làm lễ tưởng niệm tại đoàn M29 – Hải quân VN.

V.T.

Nếu cố sợt trên mạng, ta sẽ được ít nhất 2 kết quả khác nhau liên quan tới cái tin này, một là từ Tinnhanhvietnam.net – nó được đăng cuối đoạn tin chính: Truy điệu, an táng 1.009 hài cốt liệt sĩ tù binh Phú Quốc. Rõ ràng tin này lấy hoàn toàn từ Tuổi trẻ Online ngày 22/12/2008. Nhưng tìm ngược về trang Tuổi trẻ, cũng vẫn cái tựa này, thì… ôi thôi… hồn cốt của bốn liệt sĩ ở Gạc Ma đã biến mất. Sao có chuyện lạ vậy?

Sự thực thì các liệt sĩ của ta không tự nhiên biến mất, mà số phận của các anh sau khi ngã xuống vẫn còn rất nhiều gian truân. Cái tin ngắn đó, khi đầu đã bị Tuổi trẻ từ chối, nhưng Tiền phong liều đăng. Kế đến, Tuổi trẻ sau khi được cho biết vậy, cũng liều theo. Để rồi chỉ ngay trong ngày, cả hai trang báo đều gỡ tin này xuống.

Chưa hết. Nếu bản tin được đăng đầy đủ, nó còn có đoạn quan trọng sau: “Chiều 19-12-2008, Thứ trưởng Ngoại giao Hồ Xuân Sơn xác nhận, Cục lãnh sự Bộ Ngoại giao VN đã có văn bản đề nghị phía bạn tạo điều kiện tàu ta ra quy tập hết hài cốt bộ đội hy sinh về, nhưng đến nay phía bạn chưa hồi âm“. Và cho đến trước lúc BS công bố ở đây, mẩu tin quan trọng này vẫn được giữ … bí mật.

Vậy có cái “bóng ma sợ hãi” nào ở đây? Đâu phải linh hồn của các liệt sĩ Gạc Ma, dù không có mặt trọn vẹn trên mặt báo, nhưng mãi mãi vẫn trong lòng chúng ta. Thứ “bóng ma” đó cũng chẳng phải là những mẩu tin về các anh, khi được đăng lên, lúc thì biến mất. Mà đó là những con người “vô hình”, bị ám ảnh bóng ma sợ hãi, nhưng lại đang ám chúng ta. Phải chăng đằng sau đó, còn cả thứ bóng ma của cái gọi là “tình hữu nghị”, mà đến “nghĩa tử nghĩa tận”, kẻ thù trên trận mạc cũng còn biết đến, nữa là…?

Ký ức về đồng đội ngã xuống ở Trường Sa

"Trường Sa luôn trong trái tim tôi và những đồng đội nằm ở đó", ông Dũng cất giọng sang sảng, tay đặt lên khuôn ngực đen sạm in những vết sẹo do mảnh đạn pháo. Ký ức về những đồng đội hy sinh ở Gạc Ma (thuộc quần đảo Trường Sa) năm 1988 chợt ùa về.

Cựu binh Trần Thiên Phụng chụp ảnh với vợ trước ngày lên đường nhập ngũ. Ảnh: Nhân vật cung cấp
Cựu binh Trần Thiên Phụng chụp ảnh với vợ trước ngày lên đường nhập ngũ. Ảnh: Nhân vật cung cấp
Sau Tết Nguyên đán năm 1988, ở tuổi 23, chàng thanh niên Dương Văn Dũng rời quê nhà ở Cẩm Lệ (Đà Nẵng) và bạn gái trong thôn để lên đường nhập ngũ tại Trung đoàn 83, Bộ tư lệnh Hải quân Việt Nam. Ngày 12/3/1988 sau bữa cơm chiều vội vàng ở cảng Cam Ranh (Khánh Hòa), mọi người khẩn trương chuẩn bị hành lý, vật dụng tập kết lên tàu bắt đầu chiến dịch CQ-88 trực chỉ ra xây dựng đảo Gạc Ma (thuộc quần đảo Trường Sa).
"Nhiệm vụ của chúng tôi lúc đó là xây dựng và cắm cờ chủ quyền trên đảo. Ai cũng háo hức vì lần đầu được ra đảo xa. Trên tàu mọi người say sưa ca hát, có người say sóng nhưng vẫn đầy hứng khởi vì ra đảo sẽ được thỏa sức vẫy vùng cùng sóng biển", ông Dũng kể.
Sau gần một ngày rẽ sóng ra khơi, khoảng 5h chiều 13/3, hai tàu vận tải HQ 604 và 505 đến địa phận đảo Gạc Ma. Cảm giác được nhìn thấy những mỏm đá san hô, dải cát vàng giữa biển khiến ai cũng thích thú. Các thủy thủ dự định dựng ngôi nhà nhỏ xinh ngay trên mặt san hô.
Chỉ ít giờ sau khi có sự xuất hiện của hải quân Việt Nam, phía Trung Quốc bất ngờ cho tàu lớn ra uy hiếp. Tuy nhiên, theo ông Dũng, mọi người trong đoàn vẫn tiếp tục vận chuyển vật liệu lên đảo.
Cùng có mặt trên tàu HQ 604 năm đó, thương binh Trần Thiên Phụng (trú TP Đông Hà, Quảng Trị) mắt đỏ hoe kể về buổi tối 13/3/1988. "Giữa biển đêm, binh nhất Hoàng Ánh Đông (quê Quảng Bình) ngồi tựa vào cây đàn ghi ta, vừa đệm vừa hát bài Lạy mẹ con đi, ai nghe cũng rưng rưng vì nhớ nhà, nhớ mẹ. Có đứa bảo, đi đảo lần này vẫn chưa kịp chào từ biệt mẹ. Thấy như mình có lỗi với mẹ vậy!", ông Phụng kể.
Nỗi nhớ đồng đội đã mãi nằm lại đảo Gạc Ma luôn thường trực trong tâm trí cựu binh Đức. Ảnh: Nguyễn Đông
Nỗi nhớ đồng đội đã mãi nằm lại đảo Gạc Ma luôn thường trực trong tâm trí cựu binh Đức. Ảnh: Nguyễn Đông
3h sáng 14/3, tranh thủ nước rút, hải quân Việt Nam đã bơi vào đảo cắm cờ chủ quyền và vận chuyển vật liệu bằng chiếc ca nô nhỏ buộc dây từ tàu xuống. Theo ông Phụng, lúc này ca nô của Trung Quốc gây hấn bằng việc cắt những sợi dây dẫn vận chuyển vật liệu từ tàu HQ 604 vào đảo. Mọi người vẫn kiên trì bám đảo và được lệnh không nổ súng để giữ hòa khí. Tuy nhiên, đến 7h sáng, phía Trung Quốc bất ngờ bắn súng chỉ thiên.
Ông Phan Văn Đức (45 tuổi, trú phường Mân Thái, quận Sơn Trà, TP Đà Nẵng), là người trực tiếp vận chuyển vật liệu lên đảo Gạc Ma. Ánh mắt nhìn xa xăm về phía biển, ông nhớ lại, giữa loạt đạn rền vang, Trung úy Trần Văn Phương vẫn hiên ngang giữ ngọn cờ chủ quyền và hô vang: "Thà hi sinh chứ không chịu mất đảo. Hãy để cho máu mình tô thắm lá cờ truyền thống của hải quân Việt Nam anh hùng". Sau khi trung úy Phương nằm xuống, đồng đội Nguyễn Văn Lanh lao lên, khi gục ngã bàn tay anh vẫn bám chắc ngọn cờ.
Do không tương quan về lực lượng và vũ khí chiến đấu, tàu vận tải HQ 604 trúng đạn, từng chiến sĩ vẫn cố bám trụ trên con tàu chìm dần giữa biển. Ông Dũng, ông Phụng may mắn trụ trên một khúc gỗ nổi. Còn ông Đức khi bị trúng đạn ở vai cũng rướn sức ngụp lặn và bám vào một khúc gỗ cho đến khi được tàu cứu hộ của Hải quân Việt Nam vớt đưa vào đảo Sinh Tồn.
Trong lễ truy điệu những chiến sĩ đã hy sinh trên đảo tổ chức tại cảng Cam Ranh, lần đầu tiên trong đời ông Đức đã khóc. "Tôi khóc vì nỗi đau vừa mất đi những người đồng đội đêm trước còn ngồi tâm sự, kể chuyện người yêu mà nay đã mãi nằm lại nơi biển lạnh", cựu binh Đức kể.
Với binh nhất Dương Văn Dũng, những tháng ngày trở về từ cõi chết luôn là sự may mắn để ông giành tình cảm cho gia đình. Ảnh: Nguyễn Đông
Người lính Trường Sa năm xưa đang mưu sinh. Ảnh: Nguyễn Đông
Nhiều năm đã trôi qua, những lúc một mình đi dọc mé biển, ông Đức lại hướng ánh mắt đăm chiêu về phía biển xa. "Ngần ấy năm là quãng thời gian tôi bị ám ảnh bởi những đồng đội. Nhiều khi như người mất hồn đi lang thang dọc bãi biển Sơn Trà, có lẽ hồn tôi đã ở lại với Gạc Ma rồi!", người đàn ông gày gò nói.
Còn với ông Phụng, những vết thương trên thân thể luôn gợi ông nhớ về Trường Sa, về những đồng đội sát cánh cùng nhau, dù trong số họ, nhiều người đã mãi hòa máu mình vào lòng đảo Gạc Ma. Lạy mẹ con đi - bài hát cuối cùng của 64 đồng đội nằm xuống vẫn văng vẳng trong tim họ.
“Lạy mẹ con đi ôm ấp linh hồn Việt Nam
Lạy mẹ con đi noi theo chí hùng ngàn năm
Vắng con mẹ buồn là bởi ý thiên khơi nguồn
Nhưng còn gì hơn tình nước vẫn trong tình con…”
Ngày 14/3/1988, khi các tàu vận tải cùng với bộ đội Việt Nam đang thực hiện nhiệm vụ bảo vệ đảo Cô Lin, Gạc Ma và Len Đao, thì các tàu chiến của đối phương lao đến ngang ngược và bất chấp luật pháp quốc tế, dùng pháo lớn bắn vào các tàu HQ-604 ở đảo Gạc Ma, HQ-605 ở đảo Len Đao và HQ-505 ở đảo Cô Lin; cho quân đổ bộ lên đảo Gạc Ma nhổ cờ Tổ quốc, nổ súng vào bộ đội gây cho chúng ta nhiều tổn thất...” - Theo Lịch sử vùng III Hải quân 1975 - 2005.
Nguyễn Đông

Thế giới sửng sốt


Thế giới sửng sốt về nhà sư Việt quỳ lạy suốt 1.800 km

Thứ năm, ngày 26 tháng bảy năm 2012 by Bà Đầm xòe

Nhà sư Thích Tâm Mẫn bắt đầu cuộc hành trình từ 2009 tại chùa Hoằng Pháp, TP Hồ Chí Minh tới non thiêng Yên Tử, cách Hà Nội 150 km. Nhà sư đi dưới hình thức, bước một bước lại quỳ rạp mình xuống đất bái một lần (nhất bộ nhất bái) với thời gian 10 tiêng đồng hồ /ngày trên chặng đường dài 1.800 km. Ông tin rằng, mỗi lần ông quỳ lạy như vậy là ông có thể chuộc lại những lỗi lầm mà con người đã phạm phái và cầu mong phật tổ cưu hộ đọ trì để dân Việt được quốc thái dân an. Vì tính lương thiện của hành động này nên đi đến đâu ông cũng được nhân dân địa phương chào đón, hành lễ cùng nhà sư.

Hiện tại ông đã đi qua địa phận Hà Nội và tiếp tục nhất bộ nhất bái trên hành trình về  non thiêng Yên Tử.  Nhà sư dự định sẽ viên tịch tại đây.

Những bức ảnh chụp về ông được lưu hành trên mạng đã gây sửng sốt trên toàn thế giới và lập tức được chọn là một trong những tấm ảnh ấn tượng nhất thế giới trong tuần qua.

BĐX xin giới thiệu một số hình ảnh về hành trinh nhất bộ nhất bái của nhà sư Thích Tâm Mẫn:

 

 


 

26 thg 7, 2012

Có phải là "báo ứng"


    Quê mình nay vẫn lưu truyền 1 câu chuyện có thật về một số LS từ thời chống Pháp. Nhưng người ta kg đi sâu vào khía cạnh chuyện LS mà lại nhấn mạnh tính ly kỳ, tâm linh của nó, để dạy con cháu!
    Trước khi vào câu chuyện xin sơ qua đặc điểm làng quê mình, vì nó gắn liền với cốt chuyện. Làng mình nói riêng, quê mình nói chung nằm sát đường quốc lộ số 5 (đường Hà Nội – Hải Phòng). Nên du kích quê mình hoạt động rất mạnh, đc mang tên ‘Du kích đường 5’ (vào Gúc biết liền), thường giật mìn phá đường tàu gây tổn thất nặng nề cho Pháp, nhất là trong chiến dịch Điện Biên Phủ. Và du kích cũng là lực lượng tích cực nhất trong việc chống mê tín dị đoan, mà thể hiện cụ thể bằng việc hết sức ngu muội là phá đình, phá chùa.
    Chuyện rằng: Trong Đội du kích xã mình lúc bấy giờ, có 5 cụ (tuổi cha chú chúng mình) rất hăng hái, dũng cảm, lập nhiều chiến công. 1 lần đội du kích đến phá ngôi chùa nhỏ thuộc thôn mình, nằm sát 1 đầm nước khá rộng. Ngôi chùa mình kg biết có từ thời nào, nhưng các cụ bảo Chùa tuy nhỏ nhưng rất thiêng, trong thờ nhiều tượng nổi tiếng. Mình còn nhớ (ngày bé hay ra Chùa) có Quan Thế Âm Bồ Tát, Ngài Thích Ca Mầu Ni, Phật Bà trăm mắt nghìn tay v.v… Lực lượng phá Chùa thì đông, nhưng chỉ có 5 cụ kể trên là bê mỗi người 1 Bức tượng ra bờ đầm, trói mỗi Ngài vào 1 gốc cây gáo. Rồi kẻ thì vặn tay, người thì vặn cổ các Ngài cho đến gần tan nát, và cuối cùng đá văng xuống đầm nước.
    Tưởng thế là yên, nào ngờ chả mấy lâu sau, Pháp mở 1 trận càn vào làng mình. Du kích chống kg nổi, phải rút chạy và ẩn nấp lung tung trong thôn. Điều kỳ diệu xảy ra, trong trận càn ấy Pháp bắt được 5 người, mà lại chỉ là 5 cụ phá tượng kể trên, cũng đưa ra bờ đầm trước của chùa, bắn.
    Dân làng nghĩ mà kinh, cho là bị báo ứng. Vì dân làng hơi đâu mà báo với Pháp, và trong làng cũng kg có Việt gian.
    Cả 5 cụ du kích kể trên sau này cũng đc công nhận là LS vì thành tích đánh Pháp.

25 thg 7, 2012

Hành động nghĩa tình


Gõ đại bởi honngv 

    Ngày 27/7 đã cận kề. Mình vừa đt cho Nguyễn Dũng – một nhân vật tích cực trong Ban Kỷ yếu CCB, LS (từ đây gọi tắt là BKY) trường ĐHBK HN để hỏi về nhà trường có tổ chức gì nhân ngày này kg. Không ngờ Ng Dũng đang ở Quảng Bình và thông báo lại như sau:
    1/ Hôm nay BKY cùng nhà trường đã tổ chức Lễ Dâng Hương trước Tượng đài LS tại trường. BKY gửi thư đến tất cả các gia đình TB, LS.
    2/ Các CCB, thương binh, (có người cụt chân), gia đình LS chủ yếu từ trung đoàn 95 tổ chức 1 đoàn đi dâng hương và tìm mộ LS tại các tỉnh miền Trung. Đoàn có 20 người, trong đó có hơn 10 người là lính từ các trường ĐH. Tại thời điểm này có 4 người đang trinh sát tại Quảng Bình. Kinh phí do cá nhân tự nguyện.
    3/ Trừ ngày 27/7 tham gia làm Lế dâng hương các LS, thời gian còn lại chỉ dành cho việc tìm kiếm LS. Ngày 29/7 đoàn trở về HN.
    4/ Từ trước đến ngày này, đoàn đã tìm đc 70 LS, trong đó có cả những LS kg phải là SV các trường ĐH. Trong quá trình tìm kiếm gian nan, vất vả lần này, đoàn đang kết hợp với cả CCB, thương binh vốn người phía bên kia. Nhưng nay thì đều gọi chung là lính, cùng chung cốc rượu, chung 1 mục đích là tìm LS, chung 1 ý tưởng hòa giải dân tộc. Tổ Quốc lúc này là trên hết!
    5/ Là 1 người lính trực tiếp chiến đấu, trực tiếp đối mặt với cái chết, nhưng các anh giờ rất khiêm tốn. Các anh đánh giá cao Blogk14vt, là 1 blog hiếm hoi của cựu SV trường BK, nhất là trong quá trình thu lượm thông tin các LS, CCB vừa qua. Riêng anh Ng Dũng ngày nào cũng vào blog k ta, và kg vừa lòng khi thấy những người lính nhập ngũ từ trường ĐHBK HN sau khi tốt nghiệp kg tham gia vào Kỷ yếu! Lý lẽ của anh: dù các anh là những người đi trước, nhưng nếu 30/4/75 chưa hoàn thành giải phóng đất nc thì các anh chị là lính sau đó có phải hoàn thành nốt kg?!
    Cảm ơn đoàn anh Dũng. Các anh đã và đang làm 1 việc sâu đậm nghĩa tình, 1 hành động cụ thể ‘uống nc nhớ nguồn’. Chúc các anh thượng lộ bình an và gặp nhiều may mắn.
    Mong nhận đc sự quan tâm của tất cả mọi người dù kg 1 ngày là lính.

Ơn Mẹ

(Nhân dịp SN lần thứ 90 của mẹ tôi
Tại Trường yên thôn, Võ liệt xã, TC huyện, NA tỉnh)

Ơn trời nay cụ tôi Chín mươi
Tính tình hay chuyện, nói vui cười
Truân chuyên từng trải khôn kể xiết
Nay đàn con cháu khắp mọi nơi

Thưa mẹ chúng con báo ân đời
Lòng mẹ hằn sâu tim chúng tôi
Tấm gương mẫu mực soi sáng mãi
Ơn mẹ tựa trời với biển khơi

Nhớ lại ngày xưa chuyện khổ đau
Góa bụa nuôi con trong nỗi sầu
Chèo lái con thuyền nay cập bến
Vượt cả thác ghềnh lẫn biển sâu

Muôn đời gian khó chuyện mưu sinh
Lặn lội khắp nơi để học hành
Mưu cầu hạnh phúc cùng thiên hạ
Góp sức mong sao được Thái bình

Thay mặt con cháu khắp nơi nơi
Chúc mẹ sống lâu khỏe muôn đời
Để làm nơi tựa cho con cháu
Tiếp bước tấm gương mãi sáng ngời

Xin đội ơn Trời với Tổ tiên
Phù hộ chúng con khắp mọi miền
Mưu sinh học tập trên thế giới
Cầu cho cuộc sống: VƯỢNG, BÌNH YÊN

Xin cám ơn nhiều khách đến chơi
Trò chuyện, trầu cau vang tiếng cười
Bớt chút thời gian vàng ngọc hiếm
Động viên khích lệ gia đình tôi

Trường yên,Võ liệt, TC, NA
6 Giêng Tân Mão (08.01.2011)
                    H T
Những ngày nay cả nước đang sôi nổi làm lễ tri ân các anh hùng Liệt sỹ nên vốn đã nhớ nhà, nhớ mẹ, tôi lại càng nhớ và nghĩ về mẹ nhiều - người đã hy sinh cả tuổi xuân vì con cái để anh em chúng tôi có được ngày hôm nay. 
HT

Khảo dị Chuyện về đôi bướm trắng

    Vô cùng thương tiếc và cảm phục các anh hùng Liệt sỹ đã xả thân vì Tổ quốc và dân tộc VN, Xin kinh cẩn nghiêng mình tạ lễ hương hồn các anh chị đã anh dũng hy sinh.
    Chuyên đôi Bướm trắng mà KC kể và các bạn đã suy nghĩ rất đúng, nhất là cậu lái xe đã suy luận chính đó là linh hồn của các LS.
    Nhân đây xin kể chuyện chính bản thân HT đã từng chứng kiến chuyện tương tự: Một lần tôi và con gái vào nghĩa trang LS ở huyện Nam đàn thắp hương cho bố của tôi, cụ nằm đấy đến nay đã sáu thập kỷ rồi, sau 15 phút  hai bố con tôi thắp hương và khấn cụ  thì con gái tôi phát hiện trên lễ vật có một con bướm màu nâu, tôi bảo cháu đấy chính linh hồn ông nội đã chứng giàm lễ lòng thành của bố con mình đấy, Tàn hương, hóa vàng mã và xin phép hạ lễ để về quê (Thanh chương) làm giỗ cụ (7/7 ÂL). Trong khi cả nhà đang cúng lễ giỗ cụ (thầy cúng làm lễ) thì con gái tôi lại phát hiện con bướm màu nâu đậu ngay cánh cửa ra vào, trong khi ngày giỗ ở quê khách khá đông người vào ra qua lại nhưng bướm vẫn đậu ở cánh cửa rất lâu (Giống hệt con bướm hôm qua đậu trên phần mộ bố tôi).
    Đến khi quay ra Hà nội tôi lại thấy con bướm màu nâu (giống con bướm trước đó) đậu ngay trên ban thờ có di ảnh của bố tôi, sau đó nó bay ra đậu trên một cây cảnh ngoài sảnh (cách phòng thờ vài mét) và chết ngay trên cành cây cảnh đó, tôi lấy xác con bướm vào ướp và đặt ngay sau di ảnh của bố tôi cho đến nay.
Môt lần khác tôi cùng khá đông anh chị em trong họ tộc đi xe 16 chỗ từ HN về quê và có ghé qua nghĩa trang LS ở Nam đàn vào thắp hương cho bố tôi, lúc đến nơi phần mộ vừa đúng 12 h trưa, tôi đang chuẩn bị soạn lễ vật ra thắp hương thì bỗng dưng dưới đôi bàn chân tôi rung lên như đang ngồi trên chiếc xe to đang nổ máy, Tôi hoảng quá, tưởng có động đất liền hỏi các bà chị đứng kề cạnh tôi thì các chị bảo có thấy gì đâu! Thật sự những lần chứng kiến chuyện đó làm cho tôi suy nghĩ rất nhiều về lĩnh vực tâm linh có điều gì khó hiểu.
   Thêm chuyện nữa là chú ruột của tôi là một cựu nhà giáo nghỉ hưu, cụ mất ngày 27/01/1990 ÂL trong một tích tắc bởi cơn hen suyễn (chết oan do cục đờm chặn ngang phế quản) thế mà từ bấy đến nay đã hơn 22 năm rồi, lần nào làm giỗ cụ cũng có zăm con bướm to về đậu trong nhà lúc thì trên ban thờ, lúc thì tại góc nhà, lúc thì đậu ngay trên bờ vai của chú em (con đầu chú tôi), lại có lần khi vừa cúng giỗ xong cả nhà chủ và khách đều nghe tiếng ho rất to của ông chú tôi trên gác xép, nhưng khi trèo lên xem thì tiếng ho đó lại văng vẳng ở dưới nhà bếp, mọi người xuống nhà bếp thì không còn nghe gi nữa...
   Thật nhiều vấn đề về tâm linh còn rất khó hiểu và gần như không thể hiểu được.
    Nhân chuyện đôi Bướm trắng của KC kể, tôi tin đó là linh hồn của môt đôi thanh niên tuổi xuân xanh, xin kể chuyện tôi đã trực tiếp chứng kiến chuyện tâm linh trong họ tôc mình như vậy.
Xin cầu cho linh hồn các liệt sỹ và các chân linh luôn siêu thoát
Xin cám ơn các bạn đã quan tâm theo dõi
Thân ái
HT

Nghệ thuật kể chuyện của NQL

Blog đã xuất hiện vài bài dạng Kể chuyện. Cây nhà lá vườn thế cũng đủ hay. Mong có nhiều câu chuyện mới. Chiều nay vào quechoa.vn thấy 1 bài kể chuyện của Nguyễn Quang Lập (NQL) mình 'cop' sang. Mặc dù chắc chắn ai cũng đọc ở bên đó, và tài của NQL thì khỏi phải bàn. Liệu ta có thể 'bắt chước'!

Phận đàn bà 2
Nguyễn Quang Lập

Mình ra Huế dự liên hoan sân khấu. Cũng còn chẳng háo hức gì liên hoan liên heo, chỉ vì vở Mùa hạ cay đắng của mình từ  1987 hai lăm năm sau mới xuất hiện trở lại, mình muốn ra xem thế nào. Taxi vừa đến khách sạn vừa lúc một con Mẹc cũng trờ tới. Một người nhỏ thó đen thui ăn mặc sang trọng đeo kính trắng mở cửa xe bước ra. Ba bốn người đứng chực ở cửa khách sạn vội vã bước tới vồn vã rối rít bắt tay ông rồi lăng xăng lấy đồ của ông rật rật chạy theo ông. Lại có hai em chân dài, hình như người của khách sạn mang hoa đến tặng ông. Biết ngay đó không đại gia cũng quan lớn, nhìn mặt thấy quen không nhớ là ai.

Chú xe đưa ông chủ vào cầu tháng máy xong, quay ra hồ hởi bắt tay mình, nói cháu tên Thành con ông cu Diện. A anh Diện làng Đông, bạn học với anh Thắng mình. Chú lái xe cười hề hề, nói công nhận chú nhớ tài thiệt. Mình cười lắc đầu, nói cậu còn khen, mình nhớ mãi không ra sếp cậu là ai. Thấy quen mặt lắm nhưng chịu không thể nhớ. Cu Thành nói to giọng đầy hãnh diện, nói dạ đó là tiến sĩ nhạc sĩ nhà thơ Tương Như.  Mặt mình vẫn đực như ngỗng ỉa. Cu Thành ngó trước ngước sau, hạ giọng thì thầm, nói dạ tức là Cu Mèo. Ôi thôi bỏ mẹ rồi, hóa ra là Cu Mèo hi hi.

Không nhớ Cu Mèo hơn mình mấy tuổi. Đại khái khi mình học lớp năm thì anh đã học xong lớp 7 nhưng mình không gọi bằng anh, khi gọi Cu Mèo khi gọi bằng thằng. Con nít trong làng chẳng đứa nào ưa, Cu Mèo cũng chẳng ưa đứa nào. Một mình một chợ, Cu Mèo lang thang từ đầu làng đến cuối làng đi ghẹo gái. Chuyện chị Mai với anh Cu Mèo cả làng Đồng đều nhớ, mình cũng đã viết trong Xóm gái hoang.

Chị  Mai hơi thấp, múp máp, da trắng ngần, đặc biệt chị hát, ngâm thơ đều hay cả. Người thì gọi chị là Châu Loan xóm, người thì gọi Tường Vi xóm. Họp đội, họp xóm, họp đoàn, đám cưới đám hỏi  nhất nhất phải có chị hát mới xong. Mọi người nói Châu Loan mô rồi hè? Chị Mai đứng lên liền, nói đây đây. Người nóí ngâm bài rứa là hết đi Mai ơi. Người nói không không ẻ vô bài nớ, ngâm bài chào sáu mốt đỉnh cao muôn trượng tề.

 Chị Mai thuộc toàn thơ Tố Hữu thôi, mấy bài trong sách giáo khoa chị thuộc sạch. Hỏi nước mình có ai là nhà thơ, chị nói Trần Đăng Khoa với Tố Hữu, hỏi còn ai nữa không, chị nói từng nớ ngâm đã rã họng ra rồi, nhiều chi lắm. Đầu buổi ngâm thơ cuối buổi hát, hoặc ngược lại, khi nào cũng vậy ở đâu cũng vậy. Mọi người nói Tường vi mô rồi hè, chị Mai đứng lên liền, nói đây đây. Người nói hát bài Noọng ơi trăm ngàn nở hoa đi Mai ơi , người nói dở dở  quẹt quẹt, hát nắng toả chiều nay tề. Chị  hát say sưa, miệng hát ngực rung hấp dẫn vô cùng.

Có hai người mê chị, một là anh Toả bí thư chi đoàn, hai là Cu Mèo con trai cu Miễn. Mỗi lần chị Mai hát, anh Toả nhìn miệng chị không chớp, miệng mấp máy, người đu đưa, nói hay hè hay hè; cu Mèo nhóng cổ nhìn ngực chị rung rung, thè lưỡi liếm một vòng, nói đù mạ hát rứa mới hát chơ.Lại thè lưỡi liếm một vòng, miệng thít thít.  Nhưng chị Mai ghét Cu Mèo, chỉ yêu anh Tỏa thôi. Cu Mèo tức lắm, đứng dạng háng chặn đường chị Mai, nói tui thua cu Toả cái chi? Chị nói không, bỏ đi. Cu Mèo lại vượt lên chặn đường, nói tui tên Mèo, xấu phải không? Chị nói không, lại bỏ đi.

Tối cu Mèo trèo lên cây xoan sau hồi nhà chị Mai, dóng mồm xuống cửa sổ nhà chị kêu vơ Mai nời… tui ưng Mai rồi vơ Mai! Vơ Mai nời… cu Toả không bằng bãi cứt trâu, ưng hắn mần chi. Chị Mai đóng sập cửa sổ.Cu Mèo vừa rung cây vừa hát hờn căm bao lũ tham tàn… cu Toả!  Hát chán Cu Mè bắc loa tay hét to, Mờ eo meo huyền Mai! Mờ ai mai huyền Mèo. Tôi nào cũng ầm ĩ, không cho ai ngủ ngáy gì cả.

Buổi trưa nắng nóng chị Mai gánh lúa về, cu Mèo chặn đường, dạng háng nói ưng tôi đi, mai mốt tui làm lái xe tải tha hồ sướng. Chị Mai đang gánh lúa, mệt, nói ẻ vô, bỏ đi. Cu Mèo lại vượt lên trước, đứng dạng háng, nói ưng tui đi, mai mốt bọ tui lên xã, tui làm chủ nhiệm. Chị Mai đánh môi cái bịp, bỏ đi. Cu Mèo vẫn không chịu, lại vượt lên, đứng dạng háng, tụt quần nói, cu tui ri nì, Mai ưng không? Chị Mai vứt gánh lúa, chồm tới túm chim cu Mèo nghiến răng vặn, nói khoe cái cố tổ mi, khoe cái cố tổ mi. Cu Mèo kêu như cha chết.Nhưng từ đó Cu Mèo đi đâu cũng khoe, ní em Mai cầm cu tau rồi, khen cu tau đại chang,  bằng mười cu Tỏa.

Tết năm 1967, làng làm hội diễn văn nghệ ở đình làng. anh Toả chị Mai hát song ca bài Trước ngày hội bắn. Chị Mai mặc váy, cầm cái ô xoay xoay e thẹn, bắp chân trần trắng muốt, cười cái liếc cái, hát ai tin anh nói… Anh Toả mặc áo quần bộ đội, đội  mũ tai bèo, cười cái liếc cái, hát vì sao em nói nghe nào…Bà con nói ua chầu hầu hay hè hay hè. Cu Mèo đứng dậy quát  to, nói hay cái l. mạ bay! Bà con nói ua chầu chầu cu Mèo nói bậy quá hè. Cu Mèo mắt trợn tay chỉ, nói đồ xã viên biết chi! Rồi hát rống lên hờn căm bao lũ tham tàn… Mai Toả!

Mọi người nói ua châù chầu cu Mèo ỷ thế con chủ nhiệm mất trật tự quá hè. Cu Mèo nói đồ xã viên biết chi! Rồi lại hát cu cu Toả ơi, cu cu Toả ơi.. chim mi mô rồi, chim mi mô rồi… đọ tau cái coi. Bà con đòi đưa cu Mèo ra kiểm điểm, cu Miễn nói đồng chí cu Mèo nóng tính, có nói bậy nhưng xuất phát từ tấm lòng yêu thương xã viên nghèo như đồng chí Mai.  Rứa là tốt. Quan trọng là tấm lòng, không quan trọng cái lỗ mồm. Người nói tốt rứa a tốt rứa a, người không nói gì, người nói tốt rứa đo tốt rứa đo.

Ra tết anh Toả đi bộ đội. Cu Miễn đề nghị chị Mai làm bí thư chi đoàn, gánh vác cho người đi xa. Chị Mai nghe nói vậy thì nhận.Cu Miễn gặp riêng chị Mai, nói đồng chí cu Mèo chậm tiến, đồng chí nên gặp riêng nhắc nhở. Cu Mèo tức, nói răng bọ chê  tui chậm tiến? Cu Miễn cười cái hậc, nói tao tưởng mi muốn lấy con Mai. Rồi kéo tai Cu Mèo nói nhỏ như vầy như vầy… Tận dụng thế mạnh đi con.

Tối, chị Mai họp chi đoàn ở kho hợp tác, họp xong chị bảo cu Mèo ở lại nhắc nhở. Cu Mèo đè chị ra hiếp liền. Chị Mai xấu hổ không dám nói ai, chị quyết định quyên sinh. Chị đi một mạch xuống Quảng Thanh, ngồi đúng nơi “ tọa độ lửa” đợi máy bay tới thả bom. Chị không chết, bị một mảnh bom đâm đúng cuống họng, không nói được, nói gì cũng cứ dá da dá da.

Chị Mai ôm áo quần rời làng Đông về Xóm gái hoang ở với mụ Cà và chị Đóc Xấu thế nào, bắt được phi công Mỹ ra sao mình đã kể, có dịp sẽ nhắc lại. Hơn bốn chục năm rồi chẳng ai còn nhớ đến chị. Mình cũng quên. May gặp Cu Mèo bỗng nhiên nhớ lại hết.

Mình hỏi cu Thành, nói cháu có nhớ chị Mai không. Nó cười, nói thím Mai dá da da phải không? Chú muốn gặp mai đi theo cháu. Tiến sĩ nhạc sĩ nhà thơ Tương Như về Quảng Bình cắt băng khánh thành ngôi nhà  tình nghĩa cho thím Mai đó. A, lạ quá, Cu Mèo xây nhà tình nghĩa. Té ra chuyện Cu Mèo- chị Mai kết thúc rất có hậu, hi hi hay thật

Sáng Mai mình nhờ thằng bạn học cấp 1 ở làng Đông đánh xe bám theo xe Cu Mèo về nhà chị Mai. Nghe mình nói về dự khánh thành ngôi nhà tình nghĩa, thằng bạn nhìn  mình như nhìn con bò đực, nói mi điên à. Mình hỏi sao. Nó cười cái hậc, nói mày còn lạ chi Cu Mèo. Xây nhà tình nghĩa hết trăm triệu thì lão bắt tỉnh, huyện hầu rượu cuộc này đến cuộc này đến cuộc khác, nhậu sao cho đủ trăm triệu mới thôi. Mình cười, nói kệ, miễn sao chị Mai có ngôi nhà trăm triệu là tốt rồi.

Nhà chị Mai ở huyện Tuyên, một xóm nghèo ở đầu nguồn sông Gianh. Chả hiểu sao chị Mai mò lên tận đây sống một mình ở nơi heo hút này. Khi mình đến đã thấy quan khách đứng ngồi chật cứng. Chị Mai ngồi hàng ghế đầu, chẳng thấy chị vui vẻ gì, mặt cứng đơ mắt trừng trừng nhìn mọi người. Đến đoạn chủ tịch xã đọc diễn văn cảm ơn Cu Mèo, nói chị Mai có được ngôi nhà hôm nay là nhờ công sức của tiến sĩ nhạc sĩ nhà thơ Tương Như. Chị Mai chồm lên, nói dá da da da. Người ta vội vàng ấn chị ngồi xuống. Mình hơi lạ, được ngôi nhà mới sao chị Mai có vẻ giận dữ đến thế.

 Thằng bạn mình cười hì hì, nói bi kịch bi kịch. Mình hỏi sao. Nó nói mày không biết chuyện chị Mai mất 5 sào đất à. Mình nói không. Nó lại cười hi hì, nói bi kịch bi kịch. Chuyện này làng Đông ai cũng biết, chỉ có mày là không biết. Cũng tại năm bảy lăm nhà mày về Ba Đồn rồi, không biết chuyện này cũng phải. Năm đó chị Mai về làng thì ngôi khu vườn 5 sào của chị bị cha con cu Miễn chiếm dụng. Chị Mai kiện cáo khắp nơi. Chị không có chữ chẳng viết đơn được, nói gì cũng dá da da chẳng ai hiểu gì. Con kiến kiện củ khoai, nói gì cũng dá da da thì kiện cái gì nhưng chị không nản, ba chục năm này chị kiên trì bám theo  Cu Mèo, hễ gặp Cu Mè đâu chị cũng túm áo lão kêu  dá da da. Phiền quá Cu Mè mới thí cho chị cái nhà này đấy. Dứt lời thằng bạn mình cười he he, nói đó, tình nghĩa Cu Mèo là rứa đó.

Vừa lúc Cu Mèo phát biểu. Anh đứng lên nhìn mọi người rưng rưng lại nhìn chị Mai rưng rưng, nói ngôi nhà nay là món quà mọn tôi dành cho chị Mai, người đàn bà đã chịu nhiều đau khổ. Đau khổ lắm các đồng chí ạ. Cu Mèo nghẹn lại như sắp khóc. Mọi người lặng thinh cảm động. Bỗng chị Mai nhảy lên túm áo Cu Mèo, nói dá da da da!… Dá da da! Chị khóc òa day áo Cu Mèo liên tục, nói dá da da da. Mình tưởng Cu Mèo thẹn đỏ mặt, chẳng dè Cu Mèo ôm chầm lấy chị, vỗ vỗ lưng chị nghẹn ngào, nói chị đừng nói lời cảm ơn, đừng nói lời cảm ơn nữa chị Mai ơi.

Mọi người cảm động vỗ tay rần rần.

Nguyễn Quang Lập. Đăng trên quechoa.vn

Chuyện về đôi Bướm trắng

Xin gửi một nén hương để tưởng nhớ các anh các chị đã hy sinh vì độc lập tự do của dân tộc nhân kỷ niệm 55 năm ngày 27-7

Chuyện về đôi Bướm trắng

        Năm 2004 Phòng mình rủ nhau đi chơi Quảng Bình về thăm gia đình một cậu cùng cơ quan. Buổi sáng hôm đó bọn mình từ Đồng Hới ngược đường Trường Sơn đi thăm Phong Nha Kẻ Bàng. Đến đoạn đường Nam Xuân Sơn + Bắc Cầu Đá Mài 20,7Km bọn mình dừng xe ngắm phong cảnh và chụp ảnh.
       Sau đó bọn mình lên xe để đi tiếp,  khi đó bọn mình phát hiện trong buồng lái có một đôi Bướm trắng đang dập dìu bay. Đôi Bướm bay nhẹ nhàng uyển chuyển như đang múa theo vũ điệu hẳn hoi, không một tiếng động phát ra. Mình ngắm đôi Bướm múa và chợt nghĩ tại sao bọn Ong Muỗi khi bay phát ra tiếng còn Bướm thì không nhỉ, các bạn có biết tại sao không. Bởi vì: ong vỗ cánh 260 lần/1 giây, Muỗi 594 lần/1 giây, Ruồi khoảng 200 lần/1 giây, còn Bướm trắng  chỉ có 6 lần/1 giây chính vì thế Bướm trắng bay thật nhẹ nhàng và im lặng vừa bay vừa nhường nhịn nhau. Mọi người không ai nói gì và cũng không ai có ý định đuổi đôi Bướm ra khỏi xe. Cậu lái xe cho bọn mình đã từng đi bộ đội và có kinh nghiệm đường trường cũng ngồi im lặng ngắm nhìn, một lúc sau cậu ấy nói: Em chào các chị, các chị hãy về đi, bây giờ bọn em còn phải đi, chiều về bọn em sẽ vào thăm các chị. Mình thầm  nghĩ cậu này nói cho vui vậy thôi, nhưng sau đó đôi Bướm đã nhẹ nhàng dập dìu bay ra khỏi xe, bọn mình im lặng tạm biệt đôi Bướm trắng. Một đoạn đường dài sau đó hầu như không ai nói chuyện gì, chắc cũng như mình mọi người đang nghĩ đến một điều gì đó và cũng chắc chắn rằng đôi Bướm trắng có tâm hồn như chúng ta.
        Buổi chiều trên đường về Đồng Hới, bọn mình đã qua chợ mua hương và bánh kẹo để tìm vào thăm các chị như đã hứa. Mình cứ thấy gai gai trong người may mà xe đông người chứ ít thì mình cũng sợ lắm đấy. Khi về đến đoạn đường ban sáng, cậu lái xe quả quyết gần đây nhất định có nghĩa trang liệt sĩ, điều này cũng dễ hiểu vì đoạn đường này bom đạn nhiều tất phải có thanh niên xung phong để làm và bảo vệ đường, trong lòng mình cứ ngân nga mãi câu hát "có chúng tôi thanh niên xung phong, quyết không để xe chờ đường có chúng tôi ngày đêm sẵn sàng mở đường xe qua". Khi đến một con đường rẽ trái, cậu lái xe cho xe rẽ vào và mình  đinh ninh rằng cậu này chắc đã đến nghĩa trang này rồi. Nhưng đi mãi cũng không thấy gì, toàn đường quanh co không nhà cửa và không một người qua lại, nản quá bọn mình bàn quay ra để về vì cũng đã muộn. Cậu lái xe cương quyết: đã hứa vào thăm các chị là phải vào, muộn cũng phải vào. Thật là may mắn lúc đó xuất hiện một ông lão (gọi là ông lão nhưng thưc ra cũng khoảng tuổi bọn mình thôi), ông lão bảo đúng ở đây có nghĩa trang liệt sĩ, các chú đi khoảng 10 Km sẽ đến.
      Cả đoàn mình đã đến nghĩa trang liệt sĩ, sau khi thắp hương trên Đài Tổ Quốc ghi công, bọn mình chia nhau đi thăm các mộ. Mình thăm khu mộ ở phía bên phải của Nghĩa trang, nơi đây yên nghỉ toàn nữ thanh niên xung phong người Hà Nội các chị tầm tuổi mình hy sinh khi tuổi đời còn quá trẻ. Nếu còn đến bây giờ các chị hẳn cũng đã là các bà nội bà ngoại vô cùng thương yêu của các cháu. Nhưng các chị mãi mãi còn trẻ ở tuổi 20 mà chắc chắn chưa một lần được làm vợ làm mẹ.

       Xin gửi tới hương hồn các anh các chị bài viết này thay cho một nén hương để tưởng nhớ những người đã hy sinh vì Tổ quốc.

Bố mất rồi khổ quá Mẹ ơi!


(Kính tặng mẹ muôn vàn thương yêu nhân ngày giỗ bố 7/7/1978)

….
Giữa chừng mẹ lỡ đò ngang
Đời tan cả giấc mộng vàng từ đây.
Rượu hồng con uống cho say,
Động viên lòng mẹ những giây điệp trùng

Từ nay sóng gió bão bùng,
Ðầy thuyền vất vả lo không tới bờ.
Miếu thiêng vụng kén người thờ
Nhà hương khói lạnh mẹ nhờ cậy con.

Con từng thức trắng thâu đêm,
Những thương thân mẹ như chim lìa đàn.
Một vai gánh cả giang san,
Vai kia gánh cả muôn vàn nhớ thương.

Lòng sầu tóc rối tơ vương,
Còn đâu để ý lược gương làm gì
Mẹ đừng quá hận từ bi
Để dìm gian khó nhiều khi khó lường

Đời là muôn dặm trùng dương
Vượt qua tất cả mọi đường gian lao
Trên trời biết mấy ngôi sao
Cũng không sánh nổi công lao mẹ từng

Nuôi con vất vả khôn cùng
Có ngày vinh hiển vui chung tiếng cười
Sướng đâu đến với người lười
Khổ đâu mãi với những nơi chăm làm

Trên đời chớ có quá tham
Liệu sức mình để lo toan sự đời
Nhân văn có ở từng người
Tùy nhân, cơ địa, liệu thời để lo

7.8.78
HT

Bố HT là LS Hoàng Văn Liên, đã hy sinh trong chiến dịch Hòa bình (g/đ 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp), Lúc bấy giờ mẹ HT chỉ mới 30 tuổi, một mình nuôi ba con thơ dại và cày 1,5 mẫu ruộng. Ngụ tại một vùng thuần nông cực kỳ nghèo khó, Riêng gia đình HT lại càng khốn khó hơn khi một mình mẹ tôi phải chèo chống để nuôi đàn con thơ dại, Về sau 3 anh em chúng tôi càng nghĩ càng thấy thương mẹ hơn, ơn mẹ vô vàn, công lao người mẹ nói chung vốn là to lơn thì riêng mẹ tôi đối với mấy an em chúng tôi lại càng to lớn như trời biển vậy.
Nhân dịp KN lần thứ 65 ngày TBLS, HT ra mắt bài này thay cho lời chia sẻ tri ân với đấng sinh thành và các LS  đã cống hiến cả cuộc đời cho đất nước và dân tộc.

Huyền thoại Mẹ


(Kính tặng me nhân ngày TBLS
Phỏng theo bài "huyền thoại mẹ" của nhà thơ Hoàng Cầm)
TỪ: trinh hoangvan TỚI: Pho Thuong Dan. Thư có đánh dấu cờ 21:41 Thứ Ba, 24 tháng 7 2012

Mẹ là đoá hoa thơm
Cho tình con thắm mãi
Cho đời con hoán cải
Ngọn gió mát hương thơm

Mẹ là đấng tối cao
Trong đời con tất cả
Cho đời con muôn ngả
Được hạnh phúc yên vui

Đời con không tẻ nhạt
Mọi phương trời phiêu zạt
Khắp cùng chốn muôn nơi
Cho tình thêm ngào ngạt

Nếu trên đời không có mẹ
Đời cay đắng biết bao
Chả biết trôi giạt vào
Bến bờ mô - biển cả

Nay đời con có cả
Những ước muốn mẹ cần
Để mẹ đỡ phân vân
Khi Nam Tào vẫy gọi

Khi nhớ mẹ con nói
Mẹ luôn ở bên con
Muôn năm mẹ vẫn còn
Cho lòng con ấm áp

Mẹ nuôi con cứng cáp
Lớn nên nổi thành người
Bươn chải hết ngược xuôi
Tảo tần không kể xiết

Hồi bé, nào đâu biết
Mẹ khổ biết nhường nào
Chỉ một nỗi ước ao
Con trưởng thành khôn lớn
 08.3.2009
Con: H. Trinh

23 thg 7, 2012

TQ tham


                              Hoàng Trinh
Vừa nổi lên được vài năm
Mà sao họ đã hằm hằm mặt ra
Chớ nên có vội kiêu sa
Đời còn dài lắm có ta có mình

Từ xưa Hải giới phân minh
Láng giềng hai nước chung tình anh em
Từ ngày phát triển vươn lên
Vội vàng kênh kiệu bon chen mọi bề

Họ coi dân Việt vụng về
Giàu sang chốc lát đã chê bần hàn
Hãy nghe thế giới râm ran
Chê cười họ lắm mưu toan giở trò

Tự nhìn họ tưởng mình to
Họ đâu biết được cả kho nhân tài
Thế gian đâu có nhìn sai
Xin đừng cậy thế ra oai lắm tiền

Sử xưa họ chắc chưa quên
Bao lần xâm chiếm bấy phen kinh hoàng
Cho dù họ có dọc ngang
Thì toàn nhân loại vẫn đàng hoàng hơn

Họ tham biển lắm tài nguyên
Bất chấp công luận họ liền sấn vô
Trên bàn đàm phán hoan hô
Nhưng trên biển cả bạo thô bắt người

Mất hết nhân cách cả rồi
Bạn hay đồng chí làm người nữa không?
Bao năm lãnh tụ vun trồng
Mối tình đoàn kết mà không ra gì

Mong rằng họ tính kỹ đi
Đừng bàn một nẻo du di một đường
Chớ nên công luận coi thường
Chớ nên bớt bạn để nhường phương tây

Họ cho rằng thế là hay
Nhầm to bạn ạ có ngay nước cờ
Thế giới đâu có thờ ơ
Khi bạn trở mặt họ sờ đến ngay

May thay trong thời thế này
Việt nam đa nhập đông tây cả rồi
Không còn cô lập đơn côi
Như họ vẫn nghĩ giữa tôi với mình

Lãnh hải xưa vốn phân minh
Bên ta bên họ rọt rành từ lâu
Bây giờ biết biển lắm dầu
Họ dùng tàu chiến lấn sâu láng giềng

Trời đất còn lắm linh thiêng
Khuyên họ chớ có tốn tiền làm chi
Dở trò giả dối âm ti
Nhưng toàn nhân loại tinh vi hơn nhiều

“Lưỡi bò - chín điểm” vẽ điêu
Họ ra quấy nhiễu làm liều biển đông
Cả nhân loại đang ngó trông
Dõi theo hành động vừa ngông vừa cuồng
 ……….
21.7.2012
HT


Chuyện giờ mới kể (tiếp)


CHUYỆN THỜI SƠ TÁN
   Gõ đại bởi honngv
   Chắc chắn mọi người k ta đều nhớ Phú Xuyên (Hà Tây cũ) là nơi ta về sơ tán với thời gian ngắn nhất, nơi diễn ra cuộc tiễn đưa các bạn đi nhập ngũ với số lượng lớn, nơi học ít chơi nhiều, và cũng là nơi để lại trong mình 1 câu chuyện nhỏ, khó fai mờ.
    Thời kỳ đó dù sơ tán nơi nào thì theo quy định của Khoa, của Nhà trường, công tác dân vận luôn đc đưa lên hàng đầu.
    Mình đc phân về ở nhờ 1 gia đình chỉ có 3 người: 2 bố mẹ và 1 cô con gái đã đến tuổi cập kê. Giờ chỉ nhớ tên bác trai, kg nhớ tên bà mẹ và cô con gái.
    Hàng ngày chỉ có đi ăn ở bếp tập thể, rồi về cố tìm ra việc để làm công tác dân vận, mà thực ra là để gây cảm tình với gia chủ. Hết việc, mình thường đi bơi bởi ở đây có cái nửa đầm nửa sông rất dài, nc lại trong sạch.
    1 lần đi bơi về thấy cô bé chủ nhà đang gánh nc từ sông đổ vào bể (cách khoảng 50 m) làm nc ăn và sinh hoạt hàng ngày. Mình nổi máu, 1 kiểu Từ Hải, phát bừa, đại ý: Việc gì chứ gánh nc là việc nhỏ (chưa biết nói như bây giờ: như con thỏ), em để đấy anh gánh cho. Thế là xắn quần, áo 3 lỗ, bỏ móc sắt, bỏ đòn gánh, 2 tay xách trực tiếp 2 thùng nc đầy, đi phăng phăng. Cơ bụng, cơ ngực, nhất là ‘con chuột’ trên 2 cánh tay nổi lên cuồn cuộn. Được mẹ con em gái quan sát và cổ động, chả mấy chốc bể nc đã đầy. Kể từ đó, ngày nào mình cũng phải xách đầy bể nc! Bù lại, sáng nào ngủ dậy cũng có sẵn kg sắn thì khoai luộc phần mình! (SV kg có cơm sáng). Có bữa cả tổ lấy cơm từ bếp về ăn, mẹ con cô chủ kg quên có gì mang ra mời tất. (thời SV cơm ăn kg đủ). Và đặc biệt có lẽ cả nhà chủ nhìn mình với con mắt khang khác. Những câu nói ỡm ờ xuất hiện ngày càng nhiều, cứ nghĩ là chuyện cho vui! Có lần cô bé còn theo ra tận bờ đầm xem mình bơi!
    Rồi ta lại đi sơ tán đâu hay về HN, mình kg nhớ, chỉ nhớ là lúc ấy bọn con trai khoa ta ở dãy nhà xi măng thứ 2, sát cổng Đại Cồ Việt. Bẵng đi khoảng vài tháng hay hơn 1, 2 năm gì đó, mình có khách đến thăm. Trời đất quỷ thần ơi, các bạn có đoán ra ai đến thăm mình kg? (giờ kể lại ai chả đoán ra, nhưng thật tình lúc đó mình bị bất ngờ). Đó là 2 bố con bác chủ nhà ở Phú Xuyên. Cô bé giờ đã phổng phao, kg còn 'bé con' như ngày mình ở đấy. Gái quê, khỏe khoắn, chắc nịch; đang tuổi bẻ gãy sừng trâu; cong nào ra cong nấy, nhìn đến ‘bắt mắt’. 2 bố con tay đùm, tay nải nhễ nhại mồ hôi, (ngày ấy đi lại còn khó khăn), nào xôi nếp đỗ đen, thịt gà cả con…nhiều ú ụ, (toàn thứ mình thích!). Chuyện trò đại ý: cả nhà (chắc chủ yếu ở em) cứ nhắc đến cháu hoài, lần mò mãi mới biết nơi cháu học, nay cho em ra thăm anh thăm cháu và mong anh về thăm gia đình vào 1 ngày gần nhất. (bỏ mẹ chưa?!)…
    Mình chẳng còn biết ăn nói ra sao, cuống hết cả lên, đúng là tim đập chân run, hàm cứ cứng cả ra, chẳng biết ăn nói thế nào, chẳng còn biết đưa 2 bố con đến đâu vì ‘bố con em vừa ăn rồi !’. Đưa vào phòng ở kg đc, bọn con trai mà biết quả này thì nhiều chuyện lắm. Chuyện gì chứ chuyện gán ghép gái gú thì đều tầm cỡ ‘mất dạy’ cả! Tội gì mà chềnh ra cho chúng chọc ngoáy. Thành thử mình chỉ còn biết đáp lại tấm lòng vàng của 2 bố con, những cái liếc trộm thẹn thùng của cô gái bằng cách ậm à ậm ừ, vâng vâng dạ dạ, chứ có nghĩ đc gì nữa đâu. (Mình vừa chén xôi đỗ vừa đảo con mắt như ngô rang, mỗi lần bắt gặp ánh mắt em là mình lại run hết cả lên vì có lẽ mình bị cảm thật).
    Rồi cũng đến lúc em và bố phải ra về, để lại trong mình sự day dứt giai dẳng, vô định...
    Năm tháng trôi đi, mọi sự đi vào dĩ vãng.
   Đáng trách thay, đến giờ mình vẫn chưa 1 lần về lại Phú Xuyên nên kg hiểu liệu 2 bác có còn, vì vậy kg dám kể tên bác ra đây; kg hiểu Em, chuyện chồng con có hạnh phúc ?!
    Nhân dịp này xin cầu mong những điều tốt đẹp nhất cho 2 bác và Em!

Tái bút (TB): Tất Nam mà đọc chuyện này ắt tay chân ngứa lắm đấy! Hắn sẽ khịa vài 3 chuyện Khảo dị cho mà xem!