Có lẽ không ai còn nhớ thuở khai
thiên lập địa, hồ Tây ngày nay có tên gọi là gì.
Làng mạc ven hồ Tây
xưa. (Ảnh tư liệu)
|
Cũng như Đại La-Thăng Long-Đông Đô-Bắc Thành-Hà Nội hay đối với Sông Cái-Nhị Thủy-Nhị Hà-Hồng Hà, trải qua các
thời kỳ lịch sử, Hồ Tây cũng có những tên gọi khác nhau.
Điều này phụ thuộc vào ý nghĩa văn
hóa từng thời đại, cũng như ý chí chủ quan của con người, nên mỗi tên gọi ấy
đều gắn với từng sự tích, từng câu chuyện dân gian.
Đầm Xác Cáo
Đầm Xác Cáo có lẽ là tên gọi xưa nhất
của hồ Tây, gắn với sự tích con hồ ly tinh chín đuôi.
Sự tích kể rằng nơi đây ngày xưa là
rừng rậm hoang vu và nhiều gò núi. Ở đó, có một con hồ ly tinh chuyên tác oai
tác quái quấy nhiễu dân lành, nhưng việc diệt trừ hồ ly tinh được kể trong các
câu chuyện dân gian cũng khác nhau.
Một chuyện cho rằng Lạc Long Quân vì
thương xót con dân nên đã dâng nước biển dìm chết con cáo và tạo ra hồ nước.
Một câu chuyện khác kể về Huyền Thiên
cũng vì thương xót và nghe lời cầu khẩn của dân chúng mà diệt trừ con cáo. Sau
khi con cáo bị tiêu diệt, một hồ nước đã được tạo ra. Từ đó, hồ có tên là đầm
Xác Cáo.
Nguyễn Huy Lượng trong "Tụng Tây
Hồ phú" có câu:
"Trước bạch hồ nào ở đó làm
hang,
Long vương hổ nên vùng đại
trạch"
là để nói về sự tích này.
Hồ Kim Ngưu
Hồ Kim Ngưu gắn với sự tích con trâu
vàng. Song sự tích này cũng được kể lại khác nhau.
Một câu chuyện kể rằng, khi con trâu
vàng nghe tiếng chuông của ông Khổng Lồ ngỡ là tiếng mẹ gọi, bèn chạy từ Trung
Quốc sang đến bên quả chuông lớn. Nó cứ loay hoay tìm quanh quả chuông, rút
cuộc làm đất lở khiến cả quả chuông và con trâu sụt xuống tạo thành một vực
sâu. Về sau mưa làm ngập lụt tạo thành hồ, cả quả chuông lẫn con trâu vàng đều
không vớt được.
Câu chuyện khác thì kể rằng ngày xưa
ở núi Tiên Du có con trâu vàng bị một Pháp sư yểm bùa, vùng dậy chạy. Chạy mãi,
chạy mãi qua mỗi nơi, bằng sức mạnh của mình, nó đều tạo ra các dấu tích.
Cuối cùng nó chạy tới đầu sông Tô gặp
một hồ nước, nó nhao xuống bơi lội thỏa thích rồi ở luôn trong lòng như đứa con
lưu lạc vừa tìm được mẹ. Từ đó, hồ Tây có tên là hồ Kim Ngưu và dân gian còn
truyền tụng câu:
"Trâu vàng ẩn mãi giữa hồ,
Nước dù cạn vẫn mịt mù tăm hơi"
Lãng Bạc
Theo "Tây Hồ chí", thì sau
khi dập tắt cuộc khởi nghĩa bi hùng của Hai Bà Trưng, Tướng quân Mã Viện với tư
cách là kẻ thôn tính văn hóa đã gọi hồ Tây là Lãng Bạc với ý nghĩa hồ đầy sóng
vỗ. Tên gọi này thể hiện ý nghĩa rõ nhất vào những ngày giông bão, mặt hồ rộng,
sóng nước nổi lên ầm ầm, tạo ra một cảnh hồ hùng tráng và nên thơ.
Dâm Đàm
Dâm Đàm với ý nghĩa là đầm tràn đầy
nước. Có lẽ ý nghĩa ấy muốn nói tới sự rộng lớn, mênh mang sóng nước của hồ
Tây.
Tên gọi này cũng không biết chính xác
được gọi trong thời gian nào, nhưng theo cố giáo sư Trần Quốc Vượng thì Dâm Đàm
có tên thật từ thời Lý-Trần (thế kỷ X-XV) với huyền tích Lý Nhân Tông ngồi
thuyền Mục Thận xem đánh cá, gặp sương mù, có thuyền tới gần, trên có hổ, Mục
Thận quăng lưới bắt hổ, hóa ra đó là Thái sư Lê Văn Thịnh, và ông cho rằng Dâm
Đàm nghĩa là hồ mù sương.
Câu chuyện về vụ Thái sư Lê Văn Thịnh
mưu hại Vua Lý Nhân Tông được các sách ghi chép khác nhau.
Sách "Việt điện u linh",
truyện "Thái úy Trung duệ Vũ Lượng Công của Lý Tế Xuyên" (Thế kỷ
XIII) có đoạn viết: "Vào thời Lý Nhân Tông, quan Thái sư Lê Văn Thịnh nuôi
được một tên gia nô người Đại Lý, có thuật lạ đọc thần chú biến được thành hổ
báo. Lê Văn Thịnh cố dỗ dành tên gia nô dạy pháp thuật cho mình, sau khi học
được rồi thì Văn Thịnh lập mưu giết chết tên gia nô.”
Vụ án Đâm Đàm này là một câu chuyện
hoang đường, đó chỉ có thể là một màn ngụy trang cho một sự tranh giành quyết
liệt trong nội bộ triều đình nhà Lý vào cuối thế kỷ XI và sự thất thế dẫn đến
việc buộc phải ra đi của Lê Văn Thịnh. Hoặc câu chuyện phản ánh mâu thuẫn về
tôn giáo, tư tưởng xã hội của thời đại.
Lúc này, Nho giáo đang dần khẳng định
vị trí của mình mà Lê Văn Thịnh là người khai khoa cho lịch sử khoa cử Nho giáo
Việt Nam.
Lê Văn Thịnh quê ở Bắc Ninh, ông đỗ đầu khoa Minh kinh bác học năm 1075, đời Lý
Nhân Tông, ông từng làm chức Thị lang Bộ Binh.
Năm 1084, ông làm Chánh sứ đi sứ sang
Tống, bằng tài ngoại giao, ông đòi lại được vùng đất Vật Dương, Vật ác (Cao
Bằng) từ triều đình phương Bắc. Vì công lao của ông đối với triều chính, Lê Văn
Thịnh được phong Thái sư năm 1096.
Sử sách không thấy ghi mâu thuẫn
triều chính của Lê Văn Thịnh nên khi vụ án Dâm Đàm xảy ra, ông bị xích sắt đóng
cũi và bị đày lên thượng nguồn Sông Thao nhưng không bị giết vì Vua đã nghĩ đến
công lao của ông.
Còn Mục Thận làm nghề chài lưới đánh
bắt cá ở Dâm Đàm, nhờ có công cứu Vua Lý Nhân Tông nên được phong làm Đô uý và
được ban đất quanh hồ làm thực ấp. Khi mất, ông được lập đền thờ ở làng Võng
Thị, truy phong tước Thái úy Duệ Lượng Công.
"Đền Mục Lang hương lửa chẳng
rời,
Tay lưới phép còn ghi công bắt hổ"
(Nguyễn Huy Lượng, "Tụng Tây Hồ
phú")
Một vụ án đậm chất thần bí, hoang
đường ma thuật phản ánh mâu thuẫn tôn giáo của một thời đại. Về sự việc này,
Vua Tự Đức (1848-1883) có thơ vịnh:
"Yên ba cửa dĩ ký bình tung,
Tự liệu quân vương giải cấu phùng
Võng lý vô ngư hoàn hữu hổ
Tây Hồ hà loạn thiếu ngư long"
(Khói sóng đã lặng yên, việc cũ qua
rồi, giúp nhà Vua, mà gỡ bỏ mối gặp gỡ. Trong lưới không có cá, chỉ có hổ. Lo
gì hồ Tây thiếu cá)
Tây Hồ
Sử sách ghi rằng: “Đến năm 1573, để
tránh tên húy của Vua Lê Thế Tông là Duy Đàm, người ta đổi là Tây Hồ.”
Cái tên Tây Hồ có từ đó, ngoài lý do
trên, có lẽ việc đặt tên này nhằm sánh với phương Bắc, vì ở Trung Quốc cũng có
Tây Hồ nổi tiếng ở Hàng Châu. Việc đặt tên các địa danh, sông hồ của Việt Nam theo Trung
Quốc là chuyện bình thường.
Nhiều người giải thích rằng Tây Hồ
nghĩa là hồ phía Tây kinh thành, e không hợp lý. Cũng như Hà Đông, nếu xem bản
đồ Hà Nội, thì địa danh trên không đúng theo phương vị Đông và Tây.
Tây Hồ là cách đọc Hán Việt của hồ
Tây, và hồ Tây đã trở thành cái tên gần gũi, lâu dài, nên thơ nhất đối với
người Hà Nội cũng như nhân dân cả nước.
Đoài Hồ
Chúa Trịnh Tạc (1657-1682) được phong
tước Tây Vương, nên địa danh có chữ Tây bị ông ra lệnh đổi thành Đoài (quẻ Đoài
thuộc phương Tây - ý nghĩa như nhau, âm và chữ khác nhau) như Sơn Tây gọi thành
Xứ Đoài, bởi vậy nên Tây Hồ được gọi là Đoài Hồ. Nhưng cái tên Đoài Hồ không
được dùng lâu, đến hết đời Chúa Trịnh Tạc dân ta gọi lại như cũ là hồ Tây./.
(trích" Tổng tập Nghìn năm văn
hiến Thăng Long")
Bác yêu mến Hồ Tây quá! HN cháu cũng thích nhất ra hồ Tây. Cháu thích cái tên Lãng Bạc
Trả lờiXóaLãng Bạc (Đầy sóng):
XóaChiều nay Hồ Tây có giông
Ta ngồi trên sóng mà không... thấy gì
Nhớ thời ta... oẳn tù tì (tức là lúc bé!)
Xòe tay rồi lại nắm tay... rù rì
Bây giờ đều đã... khoai mì
Ngắm hồ lại nhớ cái thời... mì khoai...
(của 1 còm sỹ cho bác)
^^ "Còm sỹ" hồn nhiên thế bác
Trả lờiXóa'Còm sỹ' hồn nhiên vì chưa quen biết nên tếu táo cho vui mà. Ở đây 'ta' kg có 'còm sỹ'.
XóaCám ơn Hớn đã ôn lại cho các bạn 6 tên gọi Hồ Tây, đọc lại bài trên mình mới biết là đã đọc đâu đó, mà chẳng còn nhớ gò cả. Lần này sẽ lưu bài trên lại, thỉnh thoảng phóng xe đạp quanh Hồ Tây, kể lại 6 tên gọi Hồ Tây với các bạn (đạp xe), với mục đích rất thực dụng là lưu vào ký ức.
Trả lờiXóa