10h sáng nay, sau phần trả lời của Thống
đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Bình, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã
đăng đàn trình bày báo cáo kinh tế - xã hội.
Sau báo cáo dài 30 phút, Thủ tướng bắt đầu trả lời trực tiếp các câu hỏi chất vấn.
Hoàng Sa thuộc chủ quyền Việt Nam
Căn cứ chủ trương, đường lối nguyên tắc nêu trên, chúng
ta phải giải quyết và khẳng định chủ quyền đối với 4 loại vấn đề trên Biển Đông
như sau:
Thứ nhất, đàm phán với Trung Quốc để phân định ranh giới vùng biển
ngoài cửa Vịnh Bắc Bộ. Trong Vịnh Bắc Bộ, sau nhiều năm đàm phán, ta và Trung Quốc đã
đạt được thỏa thuận, phân định ranh giới năm 2000. Còn vùng biển ngoài cửa vịnh
Bắc Bộ, nếu theo Công ước Luật biển 1982, thềm lục địa của chúng ta chồng lấn
với đảo Hải Nam của Trung Quốc. Từ năm 2006, hai bên đã tiến hành đàm phán. Mãi
đến 2009, hai bên quyết định tạm dừng vì lập trường của hai bên rất khác xa nhau.
Đến đầu 2010, hai bên thỏa thuận nên tiến hành đàm phán những nguyên tắc cơ bản
chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển. Sau nhiều vòng đàm phán, như tôi trình bày,
nguyên tắc đó đã được hai bên ký kết trong dịp Tổng bí thư thăm Trung Quốc.
Trên nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển
này, thì vùng biển ngoài cửa vịnh Bắc Bộ là quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc.
Vì vậy, hai nước cùng nhau đàm phán để phấn định ranh giới vùng biển này trên cơ
sở Công ước Luật Biển, trên cơ sở DOC, trên
cơ sở các nguyên tắc đã thỏa thuận để có một giải pháp hợp lý mà hai bên có thể
chấp nhận được. Chúng ta đang thúc đẩy cùng Trung Quốc xúc tiến đàm phán giải quyết phân
định này. Cũng xin nói thêm, trong khi chưa phân định, trên thực tế, với chừng
mực khác nhau, hai bên cũng đã tự hình thành vùng quản lý của mình trên cơ sở
đường trung tuyến. Cũng trên cơ sở này, chúng ta có đối thoại với Trung Quốc đảm bảo an
ninh an toàn cho khai thác nghề cá của đồng bào chúng ta.
Thứ hai, chúng ta phải giải quyết khẳng định chủ quyền, đó là
vấn đề quần đảo Hoàng Sa. Thưa các vị đại biểu, Việt Nam khẳng định có đủ căn
cứ về pháp lý và lịch sử khẳng định rằng quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa là thuộc
chủ quyền của Việt Nam. Chúng ta đã làm chủ thực sự, ít nhất là từ thế kỷ 17,
chúng ta làm chủ khi hai quần đảo này chưa có bất kỳ một quốc gia nào. Và chúng
ta đã làm chủ trên thực tế và liên tục, hòa bình, nhưng đối với Hoàng Sa, năm
1956, Trung Quốc đã đưa quân chiếm đóng các đảo phía Đông của quần đảo. Năm 1974, Trung Quốc
dùng vũ lực đánh chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa trong sự quản lý hiện
tại của
chính quyền Sài gòn, tức chính quyền VN cộng hòa, chính quyền đã lên án
việc làm
này và đề nghị LHQ can thiệp. Chính phủ cách mạng lâm thời miền Nam Việt
Nam lúc đó cũng đã ra tuyên bố khẳng định hành vi chiếm đóng này. Lập
trường nhất quán của chúng ta là quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền của
Việt Nam.
Chúng ta có đủ căn cứ pháp lý và lịch sử để khẳng định điều này. Nhưng
chúng ta
chủ trương đàm phán, giải quyết, đòi hỏi chủ quyền đối với quần đảo
Hoàng Sa
bằng biện pháp hòa bình. Chủ trương này của chúng ta phù hợp Hiến chương
LHQ,
Công ước luật biển, Tuyên bố DOC.
Thứ ba,
quần đảo Trường Sa, năm 1975, giải phóng, thống nhất tổ quốc, hải quân
chúng ta đã tiếp quản 5 hòn đảo tại quần đảo Trường Sa đó là đảo Trường
Sa, đảo Song Tử Tây, đảo Sinh Tồn, đảo Nam Yết, đảo Sơn Ca. 5 đảo này do
quân đội của chính quyền Sài gòn, chính quyền miền Nam cộng hòa quản
lý, chúng ta tiếp quản. Sau đó với chủ quyền của chúng ta, chúng ta tiếp
tục mở rộng thêm lên 21 đảo....Ngoài ra chúng ta còn xây dựng thêm 15
nhà giàn ở khu vực bãi Tư Chính để khẳng định chủ quyền của VN ở vùng
biển này, thuộc 200 hải lí vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của
VN. Trong khi đó, ở quần đảo Trường Sa này, Trung Quốc đã chiếm 7 đảo đá
ngầm, Đài Loan chiếm 1 đảo nổi, Philippines chiếm 5 đảo, Malaisia,
Brunei đòi chủ quyền trên vùng biển nhưng không giữ đảo nào.
Như vậy, trên quần đảo Trường Sa, Việt Nam là quốc gia có số đảo đang
đóng giữ nhiều nhất so với các quốc gia, các bên có đòi hỏi chủ quyền,
cũng là quốc gia duy nhất có cư dân đang làm ăn sinh sống trên một số
đảo mà ta đang nắm giữ với 21 hộ, 80 khẩu, với 6 khẩu sinh ra và lớn lên
ở các đảo này.
Chủ trương của chúng ta đối với thực hiện chủ quyền ở quần đảo Trường Sa
như thế nào? Tôi muốn nói rõ chủ trương nghiêm túc thực hiện Công ước
Luật Biển, Tuyên bố DOC và các nguyên tắc thỏa thuận mới đây đã ký kết
giữa VN và TQ.
Cụ thể, thứ nhất, trước hết ta yêu cầu các bên giữ nguyên trạng, không
làm phức tạp thêm, ảnh hưởng đến hòa bình, ổn định ở khu vực.
Nâng cấp hạ tầng biển đảo, hỗ trợ ngư dân
Thứ hai, chúng ta tiếp tục đầu tư nâng cấp hạ tầng kinh tế - xã hội - kĩ
thuật, cơ sở vật chất ở các nơi ta đang nắm giữ: đường sá, điện nước,
trạm xá, trường học, nước để cải thiện đời sống, tăng cường khả năng tự
vệ của quân dân ở quần đảo này.
Thứ ba, chúng ta có cơ chế chính sách, hiện đã có, Chính phủ đang yêu
cầu sơ kết, đánh giá lại cơ chế chính sách hỗ trợ đồng bào ta khai thác
thủy hải sản, vận tải biển trong khu vực này, khuyến khích hỗ trợ bà con
ta làm ăn sinh sống và thực hiện chủ quyền trên vùng biển Trường Sa
này.
Thứ 4, liên quan cam kết quốc tế, chúng ta nghiêm túc thực hiện và yêu
cầu các bên liên quan nghiêm túc thực hiện theo đúng Công ước Luật biển
1982 và Tuyên bố DOC, đảm bảo tự do, hàng hải ở Biển Đông, hòa bình và
an ninh trật tự, tự do ở Biển Đông. Đây là mong muốn và lợi ích của các
bên liên quan, không chỉ của Việt Nam. Biển Đông là tuyến đường vận tải
hàng hóa từ Đông sang Tây, chiếm từ 50-60% tổng lượng hàng hóa vận tải
từ Đông sang Tây.
Lập trường của chúng ta, báo cáo các vị đại biểu, được ủng hộ của quốc
tế, gần đây nhất tại Hội nghị cấp cap ở ASEAN và ASEAN với các đối tác.
4. Chúng ta phải giải quyết và khẳng định chủ quyền của chúng ta trong
phạm vi 200 hải lý thuộc vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam
theo Công ước Luật Biển 1982. Chúng ta đã và sẽ tiếp tục khẳng định chủ
quyền, quản lý, thực hiện chủ quyền ngày càng đầy đủ và và hiệu quả
hơn.
Phải làm Luật biểu tình
Ý kiến thứ ba về căn cứ đề nghị xây dựng Luật Biểu tình, thái độ, chủ trương của Chính phủ khi dân bày tỏ lòng yêu nước.
Căn cứ mà Chính phủ đề nghị QH đưa vào chương trình xây dựng Luật biểu tình, có mấy căn cứ Chính phủ thảo luận, đề nghị:
Thứ nhất, thực hiện Hiến pháp. Hiến pháp điều 69 quy định công dân được
quyền biểu tình theo pháp luật. Nhưng chúng ta chưa có luật biểu tình.
Như vậy chúng ta nên bắt tay nghiên cứu xây dựng luật biểu tình. Tôi
muốn nói ngắn gọn là căn cứ thực hiện Hiến pháp.
Thứ hai, trên thực tế, các vị đại biểu Quốc hội ngồi đây đều chắc thấy
rõ một thực tế trong cuộc sống của chúng ta đã có nhiều cuộc đồng bào ta
tụ tập đông người, biểu tình, bày tỏ ý kiến, nguyện vọng, kiến nghị với
chính quyền. Có thực tế như thế. Nhưng chúng ta chưa có luật để quản
lý, điều chỉnh vấn đề này. Do đó, cũng khó cho người dân khi thực hiện
quyền mà được Hiến pháp quy định và cũng khó cho quản lý của chính
quyền. Đã khó như vậy sẽ nảy sinh những lúng túng trong quản lý, từ đó
xuất hiện những biểu hiện mất an ninh trật tự, đã xuất hiện những việc
lợi dụng để kích động xuyên tạc gây phương hại xã hội.
Thứ ba, trước thực trạng như thế, Chính phủ đã có báo cáo kiến nghị với
Quốc hội khóa trước, Quốc hội khóa trước đã ban hành nghị định để quản
lý, điều chỉnh hiện tượng này. Chính phủ đã ban hành nghị định số 38 để
quản lý, điều chỉnh hiện tượng này nhưng Nghị định của chính phủ hiệu
lực thấp chưa đáp ứng yêu cầu, tầm vóc như hiến pháp quy định và cũng
chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tế cuộc sống đang đặt ra.
Chính phủ mới thấy phải kiến nghị đưa vào chương trình xây dựng luật để
chúng ta có bộ luật, một luật biểu tình. Luật đó phù hợp Hiến pháp, phù
hợp đặc điểm lịch sử, văn hóa, điều kiện cụ thể của Việt Nam cũng như
thông lệ quốc tế và đảm bảo quyền tự do dân chủ của người dân theo đúng
quy định của hiến pháp và pháp luật, đồng thời luật đó có yêu cầu ngăn
chặn những việc làm, hành vi gây xâm hại an ninh trật tự, lợi ích của xã
hội, nhân dân.
Với tinh thần đó, chúng tôi đề nghị Quốc hội xem xét ý kiến của Chính phủ.
Đại biểu muốn hỏi về thái độ và chủ trương của Chính phủ về việc người
dân biểu thị lòng yêu nước, chủ quyền. Chủ trương nhất quán của Đảng,
Nhà nước và chính phủ là luôn trân trọng, biểu dương, khen thưởng xứng
đáng đối với tất cả hoạt động, việc làm của mọi người dân thực sự vì mục
tiêu yêu nước, thực sự vì mục tiêu bảo vệ chủ quyền quốc gia. Những
hoạt động vì mục tiêu, mục đích đó đều được hoan nghênh và khen thưởng
thích đáng. Nhưng đồng thời cũng không hoan nghênh và buộc phải xử
nghiêm theo pháp luật với những hoạt động, hành vi với động cơ lợi dụng
danh nghĩa lòng yêu nước, lợi dụng danh nghĩa bảo vệ chủ quyền để thực
hiện mục tiêu, mục đích gây phương hại cho đất nước và xã hội. Tôi nghĩ
với chủ trương nhất quán như vậy, đồng bào cử tri cả nước sẽ ủng hộ.
Kiểm soát xuất khẩu khoáng sản ngay từ dự án
...................
Nhóm phóng viên thời sự VietNamNet
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét